Những điểm chính:
- Nền kinh tế hợp đồng biểu diễn cung cấp một số lượng lớn lao động, điều này làm giảm bớt áp lực việc làm mà Trung Quốc phải đối mặt sau khi bùng phát COVID-19.
- Khi các vụ kiện liên quan đến người lao động trong nền kinh tế hợp đồng gia tăng, các tòa án Trung Quốc hiện đang gặp khó khăn trong việc xác định liệu người lao động hợp đồng có phải là nhân viên hay không và ai là người sử dụng lao động.
- Chính sách mới được ban hành vào tháng 2021 năm XNUMX đặt tình trạng việc làm dưới "mối quan hệ bán việc làm", một loại thứ ba giữa mối quan hệ dân sự nói chung và mối quan hệ việc làm.
- Nền kinh tế hợp đồng biểu diễn của Trung Quốc chủ yếu xuất hiện trên các nền tảng kinh tế chia sẻ, thường cung cấp dịch vụ mang đi (như Meituan và Eleme) hoặc dịch vụ đi xe theo yêu cầu (chẳng hạn như DiDi).
Nhân viên Gig, chẳng hạn như nhân viên giao hàng, giao thông viên hoặc tài xế, có cơ hội cung cấp các dịch vụ tương ứng cho người dùng từ các nền tảng như vậy.
Vậy, những người lao động hợp đồng có được Luật Lao động bảo vệ như những người lao động bình thường không?
Một bài báo được xuất bản bởi nhóm nghiên cứu của Tòa án Nhân dân Trung cấp Thứ nhất Bắc Kinh nói về vấn đề này.
Bài báo có tiêu đề “Định nghĩa Quy tắc về Bản chất pháp lý của Mối quan hệ Việc làm giữa Nền tảng và Người lao động Hợp đồng dưới Tình trạng Việc làm Mới”(新 就业 形态 下 平台 用工 关系 法律 性质 的 界定 规则) được xuất bản trên People's Court Daily (人民法院 报) vào ngày 23 tháng 2021 năm XNUMX.
Những điểm nổi bật của bài viết này như sau:
I. Sự trỗi dậy của nền kinh tế hợp đồng biểu diễn của Trung Quốc
Theo Báo cáo phát triển nền kinh tế chia sẻ của Trung Quốc (2021) (中国 共享 经济 发展 报告 (2021)) do Trung tâm Thông tin Nhà nước công bố vào năm 2021, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nền tảng chia sẻ của Trung Quốc đã đạt khoảng 6.31 triệu người vào năm 2020.
Theo dữ liệu của Meituan, một nền tảng mang đi của Trung Quốc, tổng số công nhân của họ trong nửa đầu năm 2020 là 2.952 triệu người; Theo dữ liệu của một nền tảng mang đi khác Eleme, tổng số công nhân của nó là khoảng 3 triệu người.
Nền kinh tế hợp đồng biểu diễn cung cấp một số lượng lớn lao động, điều này làm giảm bớt áp lực việc làm mà Trung Quốc phải đối mặt sau khi bùng phát COVID-19.
II. Nền kinh tế Gig gây rắc rối cho các tòa án Trung Quốc
1. Ngày càng gia tăng các vụ kiện liên quan đến người lao động trong nền kinh tế hợp đồng biểu diễn
Từ năm 2018 đến năm 2020, các tòa án ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Đông và Chiết Giang, bốn khu vực kinh tế phát triển nhất ở Trung Quốc, đã xử hơn 2,000 vụ án dân sự sơ thẩm liên quan đến các nền kinh tế hợp đồng như mang hàng và chuyển phát nhanh.
Số lượng các trường hợp như vậy đang tăng lên qua từng năm.
2. Khó khăn trong việc xác định xem những người lao động đó có phải là nhân viên hay không
So với quan hệ việc làm truyền thống, người lao động trong nền kinh tế hợp đồng được hưởng sự linh hoạt và tự chủ về thời gian làm việc.
Nói chung, người lao động hợp đồng có thể quyết định xem có nên nhận đơn đặt hàng hay không, nhận đơn hàng nào và nghỉ ngơi khi nào, điều này mang lại cho họ sự linh hoạt về giờ làm việc.
Do đó, loại việc làm này không có tính cách mạnh mẽ và sự phục tùng của tổ chức như trong quan hệ việc làm truyền thống.
Tuy nhiên, nền tảng này thường giám sát và kiểm soát hiệu suất công việc và thù lao của người lao động thông qua logic thuật toán cụ thể, xếp hạng người dùng và các phương tiện quản lý khác.
Do đó, điều này cho phép nền tảng kinh tế chia sẻ kiểm soát người lao động hợp đồng ở một mức độ nhất định, khác với mối quan hệ giữa các bên theo hợp đồng dân sự nói chung.
3. Khó khăn trong việc xác định ai là người sử dụng lao động
Nền tảng này thường thiết lập sự hợp tác với nhân viên biểu diễn theo những cách sau:
A. Nền tảng ký một hợp đồng dân sự chung, thay vì hợp đồng lao động, với người lao động;
B. Nền tảng hợp tác với một nhà cung cấp thực sự thuê nhân viên biểu diễn;
C. Nền tảng yêu cầu người lao động đăng ký với tư cách là một doanh nghiệp cá nhân, và sau đó nền tảng ký một hợp đồng dân sự chung với doanh nghiệp cá nhân.
D. Nền tảng thành lập một số công ty liên kết, chịu trách nhiệm tương ứng trong việc ký kết hợp đồng, cung cấp phương tiện, thanh toán tiền công, thu tiền đặt cọc và những thứ tương tự.
Ngoài ra, nhà cung cấp nền tảng có thể thuê ngoài công việc kinh doanh cho một nhà thầu khác, người cuối cùng sẽ sử dụng nhân viên biểu diễn.
Thực tiễn như vậy gây khó khăn cho tòa án trong việc xác định ai phải thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động hợp đồng.
III. Quan điểm của tác giả về tình trạng việc làm trong nền kinh tế tốc độ cao của Trung Quốc
1. Tòa án Trung Quốc cần một bộ quy tắc để xác định tình trạng việc làm
Tác giả cho rằng cần phải đưa ra một bộ quy tắc để tòa án có thể giải quyết tình huống khó xử trên.
Tác giả gợi ý rằng các quy tắc như vậy nên chỉ rõ:
A. Về nguyên tắc, tòa án cần xác định mối quan hệ pháp lý giữa hai bên dựa trên hợp đồng.
B. Trường hợp hợp đồng mà hai bên giao kết không phù hợp với quan hệ pháp luật hiện thực thì Tòa án giữ nguyên quan hệ pháp luật thực tế.
Ví dụ: mặc dù nhân viên hợp đồng chỉ ký kết hợp đồng dân sự chung với nền tảng, nhưng tòa án nên thận trọng về ý định của nền tảng để trốn tránh các nghĩa vụ của mình trong Luật Lao động. Do đó, tòa án nên xem xét liệu có mối quan hệ việc làm giữa nền tảng và người lao động hợp đồng theo nghĩa thực tế hay không thay vì chỉ tập trung vào hợp đồng bằng văn bản.
Cụ thể, tòa án nên tiến hành kiểm tra từ hai khía cạnh:
A. Xem xét hợp đồng để xác định xem hợp đồng chỉ có vẻ như là một hợp đồng dân sự nói chung, nhưng thực chất là một hợp đồng lao động về bản chất;
B. Kiểm tra tình trạng làm việc của người lao động để xác định tình trạng làm việc của người đó có phù hợp với đặc điểm công việc của người lao động theo quy định của pháp luật về hợp đồng hay không.
2. Mối quan hệ mới giữa cá nhân và doanh nghiệp
Theo truyền thống, theo luật pháp Trung Quốc, các cá nhân thường có hai cách để thiết lập quan hệ hợp tác với doanh nghiệp:
A. Quan hệ dân sự chung: hai bên ký kết hợp đồng dân sự chung, theo đó cá nhân và doanh nghiệp có tư cách bình đẳng, hợp tác với nhau, nghĩa là doanh nghiệp không quản lý cá nhân, không phải chịu các nghĩa vụ như một nhà tuyển dụng;
B. Tư cách việc làm: hai bên ký hợp đồng lao động, sau đó cá nhân trở thành nhân viên của doanh nghiệp và chịu sự quản lý của doanh nghiệp.
Trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, tòa án có xu hướng cho rằng hợp đồng ký giữa cá nhân và doanh nghiệp là hợp đồng lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên, chính sách mới được chính phủ Trung Quốc ban hành vào tháng 2021 năm XNUMX đặt ra một loại quan hệ khác, đó là "quan hệ bán việc làm". Chính sách đề cập đến nó là "một hoàn cảnh không hoàn toàn phù hợp với mối quan hệ việc làm". (Lưu ý: xem bài đăng trước đó của chúng tôi “Tài xế gọi xe ở Trung Quốc: Không phải nhân viên, mà là nhà thầu độc lập")
Loại "mối quan hệ bán việc làm" này một mặt không thừa nhận rằng người lao động hợp đồng đã rơi vào tình trạng việc làm, mặt khác, yêu cầu nền tảng này phải chịu một số nghĩa vụ với tư cách là người sử dụng lao động.
Mục đích của chính sách này là để cân bằng lợi ích của nền tảng và người lao động hợp đồng, cụ thể là, một thỏa hiệp mà cả hai bên đạt được.
Nói cách khác, quan hệ bán việc làm đã trở thành vùng đệm giữa quan hệ dân sự nói chung và quan hệ việc làm.
Tuy nhiên, điều này đặt ra một thách thức đối với các tòa án Trung Quốc: làm thế nào để các tòa án phân biệt giữa mối quan hệ việc làm và mối quan hệ bán việc làm?
Tác giả tin rằng trong quan hệ việc làm, người lao động chịu sự phụ thuộc về mặt cá nhân, tổ chức và kinh tế đối với người sử dụng lao động; trong khi đó, trong mối quan hệ bán việc làm, người lao động chịu sự phụ thuộc về mặt kinh tế của người sử dụng lao động nhưng không phụ thuộc quá nhiều về mặt nhân cách và sự phụ thuộc của tổ chức.
Đóng góp: Quốc Đông Du 杜国栋