Những điểm chính:
- Vì Trung Quốc vẫn tuyên bố bị ràng buộc bởi điểm (1) (b) của Điều 1 CISG, nên chỉ có hai tình huống mà CISG có thể được áp dụng ở Trung Quốc. Một tình huống phổ biến là các bên có địa điểm kinh doanh tại các Nước ký kết khác nhau (đoạn (1) (a) của Điều 1 CISG), và tình huống còn lại là nơi một hoặc cả hai bên có (các) địa điểm của mình. kinh doanh tại một Nước không ký kết, nhưng các bên chọn áp dụng CISG.
- Như Tòa án Nhân dân Tối cao Trung Quốc đã chỉ ra, Thông báo về Án lệ của UNCITRAL về CISG không được coi là một phần không thể tách rời của CISG và không thể được sử dụng làm cơ sở pháp lý để các tòa án Trung Quốc xét xử các vụ việc, tuy nhiên, với mục đích giải thích chính xác các điều khoản liên quan của CISG, các tòa án Trung Quốc có thể tham chiếu đến Digest khi thích hợp.
- Đối với các vấn đề không có trong CISG, như hiệu lực của hợp đồng và quyền sở hữu hàng hóa, chúng được điều chỉnh bởi luật hiện hành dựa trên các quy tắc luật quốc tế tư nhân của Trung Quốc (như quy tắc về quyền tự chủ của bên).
Năm 1988, Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (sau đây gọi là “CISG”) trở nên ràng buộc về mặt pháp lý đối với Trung Quốc, là một trong những Quốc gia ký kết đầu tiên theo đó. Vậy CISG được các tòa án Trung Quốc áp dụng như thế nào?
Bài viết "Áp dụng Công ước Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế tại Tòa án Trung Quốc”(联合国 国际 货物 销售 合同 公约 在 中国 法院 的 适用) được xuất bản trong“ People's Judicature ”(人民 司法) (số 31, 2021) bởi Wang Haifeng (王海峰), một thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao (SPC), và Zhang Silu (张 丝路), một học giả của Đại học Khoa học Chính trị và Luật Tây Bắc Trung Quốc, có thể cung cấp cho chúng ta một góc nhìn về vấn đề này.
I. Tòa án Trung Quốc áp dụng CISG cho những trường hợp nào?
Theo một tuyên bố do Trung Quốc thực hiện, Trung Quốc không coi mình bị ràng buộc bởi điểm (b) của khoản 1 Điều 1.
Theo đó, chỉ có hai trường hợp mà CISG có thể được áp dụng ở Trung Quốc:
Tình huống 1: các bên có địa điểm kinh doanh tại các Nước ký kết khác nhau.
Cụ thể, các tòa án Trung Quốc sẽ áp dụng CISG theo điểm (1) (a) của Điều 1 CISG.
Nói cách khác, để các tòa án Trung Quốc áp dụng CISG, ba điều kiện phải được đáp ứng: (1) các bên có địa điểm kinh doanh ở các bang khác nhau; (2) các bên có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia là Quốc gia ký kết CISG; và (3) các bên không loại trừ việc áp dụng CISG.
Trong Vụ kiện Hướng dẫn số 107, tức là ThyssenKrupp Metallurgical Products Gmbh kiện Sinochem International (Overseas) Pte Ltd. vì tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, SPC đã xác định ba quy tắc cụ thể hơn để áp dụng CISG của các tòa án Trung Quốc :
Thứ nhất, khi các bên có địa điểm kinh doanh tại các Nước ký kết khác nhau, CISG nên được ưu tiên áp dụng;
Thứ hai, khi các bên loại trừ việc áp dụng CISG, họ sẽ đề xuất rõ ràng như vậy trong thủ tục xét xử;
Thứ ba, khi CISG được áp dụng, luật điều chỉnh do các bên đồng ý sẽ chỉ được áp dụng cho các vấn đề không được đề cập trong CISG.
Tình huống 2: một hoặc cả hai bên đã / có (các) địa điểm kinh doanh của mình tại một Nước không ký kết, nhưng các bên chọn áp dụng CISG.
Trên thực tế, lựa chọn này nên được coi là các bên đã đưa CISG vào hợp đồng giữa họ.
II. Tòa án Trung Quốc áp dụng CISG như thế nào?
1. Tòa án Trung Quốc sẽ bỏ qua CISG?
Trong một số trường hợp, cụ thể là trong trường hợp sơ thẩm, các tòa án Trung Quốc có thể bỏ qua việc áp dụng CISG vì họ không quen thuộc với nó.
Theo thông lệ chung của họ, các tòa án sơ thẩm này có thể quyết định áp dụng luật Trung Quốc dựa trên quyền tự quyết của đảng, phương thức thực hiện đặc trưng hoặc nguyên tắc về mối quan hệ trọng yếu nhất.
Tuy nhiên, hầu hết các hành vi sai trái như vậy sẽ được các tòa án cấp phúc thẩm sửa chữa trong phiên sơ thẩm thứ hai.
Ngoài ra, trong một số trường hợp, một số tòa án Trung Quốc cho rằng các hợp đồng sản xuất quốc tế (chẳng hạn như hợp đồng gia công với nguyên vật liệu được cung cấp), thường thấy trong thương mại xuất nhập khẩu của Trung Quốc, không thuộc hợp đồng mua bán quốc tế, và do đó từ chối áp dụng CISG. Hiện tại, vấn đề này vẫn đang gây tranh cãi ở Trung Quốc.
2. Tòa án Trung Quốc giải thích CISG như thế nào?
Trong Trường hợp Hướng dẫn số 107, TANDTC chỉ ra rõ ràng rằng Thông báo về Án lệ của UNCITRAL về Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (sau đây gọi là "Thông báo") không phải là một phần không thể tách rời của CISG và không thể được sử dụng làm cơ sở pháp lý để các tòa án Trung Quốc xét xử các vụ án. Tuy nhiên, với mục đích giải thích chính xác các quy định có liên quan của CISG, các tòa án Trung Quốc có thể tham khảo Thông báo khi thích hợp.
Trong các trường hợp hướng dẫn nêu trên, SPC đã tham khảo các quyết định của các Quốc gia khác về các điều khoản vi phạm cơ bản của CISG được cung cấp trong Thông báo.
3. Làm thế nào để các tòa án Trung Quốc giải quyết các vấn đề không có trong CISG?
(1) Các vấn đề không chịu sự điều chỉnh của CISG
CISG đã nói rõ rằng nó sẽ không áp dụng cho một số vấn đề, chẳng hạn như bán cổ phiếu, cổ phiếu và chứng khoán đầu tư (Điều 2 (d)), hiệu lực của hợp đồng, quyền sở hữu / quyền sở hữu hàng hóa ( Điều 4 (a) (b)).
Những vấn đề này sẽ được điều chỉnh bởi luật hiện hành dựa trên các quy tắc luật quốc tế tư nhân của Trung Quốc (như quy tắc đảng tự trị). Ví dụ: nếu các bên đã chọn luật điều chỉnh cho hợp đồng, thì những vấn đề này không có trong CISG sẽ phải tuân theo luật điều chỉnh này.
(2) Các vấn đề do CISG điều chỉnh nhưng không được đề cập trong CISG
Theo khoản 2 Điều 7 của CISG, những vấn đề đó phải được giải quyết phù hợp với các nguyên tắc chung mà nó dựa trên cơ sở đó hoặc, trong trường hợp không có các nguyên tắc đó, phù hợp với luật áp dụng dựa trên các quy tắc riêng. luật quôc tê.
Ví dụ, theo Điều 26 của CISG, tuyên bố hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được thông báo cho bên kia. Tuy nhiên, Điều khoản này không quy định thời gian có hiệu lực của tuyên bố tránh, có nghĩa là thời điểm nó được gửi đi hoặc khi nó được tống đạt hợp lệ.
Về vấn đề này, trong một trường hợp, tòa án Trung Quốc đã phân biệt giữa tuyên bố hủy hợp đồng và việc người bán không thực hiện nghĩa vụ thông báo tại khoản 2 Điều 47 của CISG theo quy định về việc chậm thông báo trong Điều. 27 của CISG. Trên cơ sở đó, tòa cho rằng việc tuyên bố hủy hợp đồng cần tuân theo nguyên tắc có hiệu lực khi gửi.
Ví dụ khác, theo Điều 78 của CISG, nếu một bên không trả giá hoặc bất kỳ khoản tiền nào khác còn thiếu, bên kia có quyền hưởng lãi từ khoản tiền đó. Tuy nhiên, CISG không đưa ra cách tính lãi, và cũng không đưa ra các nguyên tắc pháp lý chung mà CISG dựa trên đó. Do đó, các tòa án Trung Quốc sẽ áp dụng các quy định về cách tính lãi trong luật điều chỉnh do các bên lựa chọn.
Photo by Khai Ngọc Ngô on Unsplash
Đóng góp: Meng Yu 余 萌