Thủ tục tống đạt là một trong những vấn đề quan trọng được các tòa án Trung Quốc xem xét trong việc công nhận và thi hành các phán quyết của nước ngoài. Hiện tại, không có quy định cụ thể nào ở Trung Quốc về cách thức xem xét thủ tục của các dịch vụ. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng học hỏi các thông lệ của tòa án Trung Quốc từ các vụ việc đã quyết định có liên quan.
Bài đăng này là phần giới thiệu bài viết có tiêu đề “Đánh giá phân loại dịch vụ trong các vụ án dân sự và thương mại nước ngoài” (论 对外 国民 商 事 案件 送达 程序 的 分类 审查), phản ánh suy nghĩ của các thẩm phán Trung Quốc về việc xem xét thủ tục tống đạt trên thực tế. Bài báo đã được đăng trên “Tạp chí Luật Quốc tế Đại học Vũ Hán” (武 大 国际法 评论) (Tập 19, số 2, tháng 2016 năm XNUMX) bởi Jiao Xiaoding, người là thẩm phán tại Tòa án Nhân dân Cấp cao Quảng Đông đồng thời là một ứng viên tiến sĩ tại Trường Luật, Đại học Vũ Hán. Bài báo là kết quả trung gian của dự án “Sáng kiến Vành đai và Con đường và Hợp tác Pháp lý”, được tài trợ bởi Viện Nghiên cứu Chính về Khoa học Xã hội và Nhân văn, Bộ Giáo dục Trung Quốc.
1. Đặc điểm của việc xem xét thủ tục tống đạt tại các tòa án Trung Quốc
Vào ngày 21 tháng 2015 năm 274, tác giả đã truy xuất các phán quyết được công bố trên China Judgement Online sử dụng cụm từ khóa “Yêu cầu công nhận và thực thi phán quyết nước ngoài” làm nguyên nhân hành động và thu được tổng cộng 19 phán quyết, trong đó 19 phán quyết liên quan đến thủ tục tống đạt trong các phần như lập luận của các bên, kết quả thực tế của tòa án và tài liệu nắm giữ. Sau khi phân tích XNUMX phán quyết, tác giả chỉ ra rằng việc xem xét lại thủ tục tống đạt tại các tòa án Trung Quốc có những đặc điểm sau:
(1) Cách hiểu khác nhau về phạm vi của thủ tục dịch vụ
Một số tòa án chỉ xem xét liệu các bên liên quan có được thông báo thích hợp về thủ tục tố tụng hay không, một số chỉ xem xét liệu bản án có được tống đạt hợp lý hay không, và những tòa án khác xem xét cả hai.
(2) Sự mất đoàn kết của các tiêu chí đánh giá
Một số tòa án không còn xem xét tính hợp pháp của dịch vụ sau khi các bên liên quan, hoặc chỉ bị đơn xác nhận (các) rằng anh ta / cô ta được tống đạt hợp lệ. Ngược lại, theo quan điểm của một số tòa án, tính hợp pháp của dịch vụ không thể được thiết lập nếu không có các tài liệu hỗ trợ, ngay cả khi bị đơn đã xác nhận như đã nói ở trên.
(3) Sự mơ hồ của các cơ sở đánh giá
Một số tòa án chỉ rõ rằng cơ sở xem xét là các hiệp ước song phương về tương trợ tư pháp, trong khi một số tòa án khác, dựa trên luật của quốc gia yêu cầu, xem xét bằng chứng tống đạt thích hợp do tòa án nước ngoài hoặc các cơ quan hành chính khác cấp.
(4) Bất đồng về trình tự xem xét dịch vụ và các vấn đề khác
Một số tòa án xem xét cả hiệu lực của một bản án và thủ tục tống đạt cùng một lúc. Ngược lại, các tòa án khác không còn xem xét tính hợp pháp của việc tống đạt khi không thể xác định chắc chắn hiệu quả của phán quyết.
2. Cơ sở pháp lý để tòa án Trung Quốc xem xét thủ tục tống đạt
Các quy tắc cụ thể do Tòa án Nhân dân Tối cao Trung Quốc (SPC) ban hành liên quan đến việc xem xét thủ tục tống đạt, chẳng hạn như “Quy định về các vấn đề thủ tục liên quan đến việc Công dân Trung Quốc nộp đơn xin công nhận bản án ly hôn nước ngoài” (关于 中国 公民 申请 承认外国 法院 离婚 判决 程序 问题 的 规定) và “Quy định về các vấn đề liên quan đến việc Tòa án nhân dân chấp nhận Đơn xin công nhận bản án ly hôn người nước ngoài” (关于 人民法院 受理 申请 承认 外国 法院 离婚 判决 案件 有关 问题 的 规定). Tuy nhiên , các điều khoản nói trên sẽ chỉ áp dụng đối với các bản án ly hôn nước ngoài liên quan đến tình trạng hôn nhân của các bên, và không giải quyết những vấn đề liên quan đến các vấn đề như phân chia tài sản, chi phí sinh hoạt và quyền nuôi con, cũng như các dân sự nước ngoài khác và các bản án thương mại.
TANDTC cũng công bố một số văn bản trả lời yêu cầu hướng dẫn của các Tòa án cấp dưới đối với một số vụ án nhất định, nhằm hướng dẫn việc xét xử các vụ án tương tự tiếp theo cho các Tòa án địa phương trên toàn quốc. Trong số các văn bản trả lời của TANDTC, có XNUMX trường hợp đề cập đến vấn đề thủ tục tống đạt các bản án dân sự và thương mại nước ngoài không phải là các bản án ly hôn về tình trạng hôn nhân,
(1) Trường hợp Công ty CHORVANASLXIZMAT nộp đơn xin công nhận và thi hành bản án dân sự của Uzbekistan
Vụ việc được đệ trình trước Tòa án Nhân dân Trung cấp Urumqi, nơi cho rằng cần đưa ra phán quyết chống lại việc công nhận và thi hành một bản án dân sự của Uzbekistan. Sau sự đồng ý của Tòa án nhân dân cấp cao khu tự trị Tân Cương và TANDTC, Tòa án nhân dân trung cấp Urumqi cuối cùng đã đưa ra phán quyết chống lại việc công nhận và thực thi.
Căn cứ vào hiệp ước song phương Trung Quốc-Uzbekistan và Luật tố tụng Uzbekistan, Tòa án nhân dân trung cấp Urumqi đã xem xét thủ tục tống đạt và cho rằng các bản sao của lệnh triệu tập và đơn khiếu nại đã được tống đạt theo cách không phù hợp với luật của Uzbekistan và các quy định liên quan đến thủ tục tống đạt của hiệp ước song phương. Do đó, tòa án nhận thấy rằng bị đơn đã không được tống đạt hợp lý. Ngoài ra, tòa án cho rằng bản án không có hiệu lực, xét thực tế là việc tống đạt bản án không đáp ứng các yêu cầu về thời hạn và phương thức tống đạt theo quy định của pháp luật Uzbekistan.
Tòa án nhân dân cấp cao khu tự trị Tân Cương cho rằng vấn đề mấu chốt là liệu cách thức phục vụ có đúng luật hay không. Theo quy định về dịch vụ ngoại giao hoặc lãnh sự trong hiệp ước song phương Trung Quốc-Uzbekistan, nếu bị đơn được thông báo hợp lệ về quá trình tố tụng và có thể thu xếp để bào chữa cho mình, thì việc tống đạt giấy triệu tập sẽ có hiệu lực. Trong khi đó, theo Luật Tố tụng của Uzbekistan, do bản án không được tống đạt hợp lệ nên không có hiệu lực.
TANDTC cũng cho rằng việc tống đạt bản án không phù hợp với hiệp ước song phương, và làm suy yếu chủ quyền của Trung Quốc, do đó, họ xác nhận phán quyết chống lại việc công nhận và thi hành phán quyết dân sự của Uzbekistan.
(2) Trường hợp Công ty Hukla nộp đơn xin công nhận và thi hành phán quyết thương mại của Đức
Vụ kiện đã được đệ trình trước Tòa án Nhân dân Trung cấp số 2 Bắc Kinh, nơi đã xem xét đưa ra phán quyết chống lại việc công nhận và thi hành phán quyết thương mại của Đức. Sau sự đồng ý của Tòa án nhân dân cấp cao Bắc Kinh và TANDTC, Tòa án nhân dân trung cấp số 2 Bắc Kinh đã đưa ra phán quyết như vậy.
Trong báo cáo gửi tới TANDTC, Tòa án Nhân dân Cấp cao Bắc Kinh tuyên bố rằng với thực tế là cả Trung Quốc và Đức đã phê chuẩn “Công ước La Hay về việc cung cấp các tài liệu tư pháp và ngoài tư pháp cho các vấn đề dân sự hoặc thương mại” (关于 向 国外 送达 民事 或商 事 司法 文书 和 司法 外 文书 公约), việc xem xét tống đạt các văn bản tư pháp cần được thực hiện theo quy ước đã nêu. Do Trung Quốc bảo lưu dịch vụ qua đường bưu điện khi gia nhập công ước, nên tòa án Đức đã đưa ra phán quyết đối với bị đơn theo cách không phù hợp với luật pháp Trung Quốc. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp cao Bắc Kinh đề nghị ra phán quyết không công nhận và cho thi hành phán quyết của phía Đức.
TANDTC đã đồng ý với Tòa án Nhân dân Cấp cao Bắc Kinh và không công nhận cách thức tống đạt của tòa án Đức. TANDTC cho rằng bản án của Đức chưa có hiệu lực nên Công ty Hukla (người nộp đơn) không đủ điều kiện để nộp đơn yêu cầu công nhận và thi hành. TANDTC nói thêm rằng người nộp đơn có thể nộp đơn lại để được công nhận và thi hành sau khi bản án được tống đạt theo cách thức phù hợp với luật pháp Trung Quốc; nếu không, một tòa án Trung Quốc nên đưa ra phán quyết bác bỏ đơn, với điều kiện người nộp đơn vẫn khăng khăng với đơn.
(3) Trường hợp Công ty Uzprommashimpeks nộp đơn xin công nhận và thi hành phán quyết thương mại của Uzbekistan
Vụ việc đã được đệ trình trước một Tòa án Nhân dân Trung cấp của tỉnh Chiết Giang, nơi đã xem xét đưa ra phán quyết chống lại việc công nhận và thi hành một phán quyết thương mại của người Uzbekistan. Sau sự đồng ý của Tòa án nhân dân cấp cao Chiết Giang và TANDTC, Tòa án nhân dân cấp trung gian đã đưa ra phán quyết như vậy.
Tòa án nhân dân cấp cao Chiết Giang cho rằng thủ tục tống đạt cần được xem xét lại dựa trên hiệp ước song phương Trung Quốc-Uzbekistan về tương trợ tư pháp. Điều 12 của hiệp ước nói trên quy định rõ ràng rằng việc tống đạt qua đường bưu điện là không hợp pháp, và do đó, việc tống đạt phán quyết của Uzbekistan qua đường bưu điện là không phù hợp với hiệp ước, tuy nhiên phán quyết tuyên bố rằng bị đơn đã được triệu tập hợp pháp nhưng không ra hầu tòa. Do đó, bị đơn đã không được tống đạt thích hợp trong trường hợp có phán quyết mặc định.
TANDTC cũng cho rằng cơ sở xem xét là hiệp ước song phương Trung Quốc-Uzbekistan. Cụ thể hơn, liệu bên vắng mặt có được triệu tập hợp pháp hay không sẽ được xác định bởi luật của quốc gia yêu cầu. Vì phán quyết của Uzbekistan tuyên bố rằng bị đơn đã được triệu tập hợp pháp nên việc tống đạt qua đường bưu điện là hợp pháp. Tuy nhiên, việc tống đạt qua đường bưu điện không phù hợp với hiệp ước song phương và làm suy yếu chủ quyền tư pháp của Trung Quốc, do đó, TANDTC đã đưa ra phán quyết chống lại việc công nhận và thực thi phán quyết của Uzbekistan.
Bản tóm tắt của CJO về các ý kiến của ba tòa án:
Thứ nhất, về việc tống đạt giấy triệu tập, Tòa án nhân dân trung cấp, Tòa án nhân dân cấp cao và TANDTC có ý kiến khác nhau: Tòa án nhân dân cấp trung gian cho rằng bị cáo không được triệu tập hợp pháp; Tòa án nhân dân cấp cao cho rằng bị đơn được triệu tập hợp pháp; và TANDTC không có quan điểm về việc liệu bị đơn có được triệu tập hợp pháp hay không.
Thứ hai, đối với việc tống đạt bản án, cả ba cấp tòa án đều cho rằng bản án không được tống đạt hợp lệ nhưng đã áp dụng các căn cứ pháp lý khác nhau: Tòa án nhân dân trung cấp và Tòa án nhân dân cấp cao dựa vào pháp luật của nước yêu cầu. , trong khi SPC xem xét dịch vụ dựa trên hiệp ước song phương.
3. Phần kết luận
Tác giả kết luận rằng các tòa án Trung Quốc có xu hướng xem xét tính hợp pháp của thủ tục tống đạt dựa trên luật của quốc gia yêu cầu, điều này cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức là bao gồm luật trong nước của quốc gia đó và các điều ước quốc tế mà quốc gia đó tham gia. Hơn nữa, luật của quốc gia yêu cầu quyết định liệu luật trong nước hay các điều ước quốc tế của quốc gia đó nên được áp dụng trước.
Đóng góp: Quốc Đông Du 杜国栋 , Meng Yu 余 萌