Trong thực tiễn tư pháp của Trung Quốc, ghi âm là một cách phổ biến để thu thập chứng cứ. Nếu đoạn ghi âm cuộc trò chuyện riêng tư mà không có sự cho phép của bên kia thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tòa án có thể thừa nhận nó như một bằng chứng.
I. Các bản ghi âm bí mật có được chấp nhận tại tòa án Trung Quốc không?
Có tám loại bằng chứng được quy định tại Điều 63 của Luật Tố tụng Dân sự (CPL) của Trung Quốc, trong đó bằng chứng ghi âm được đưa vào loại 4 “tài liệu nghe nhìn”. Ngoài ra, trong Luật kế vị của Trung Quốc cũng có quy định về “di chúc bằng ghi âm”. Do đó, việc ghi âm thuộc các loại chứng cứ được pháp luật cho phép.
Mặc dù việc ghi âm có thể được sử dụng làm bằng chứng pháp lý nhưng trên thực tế, việc ghi âm thường được thực hiện một cách bí mật mà bên kia không hề hay biết. Đối với việc ghi âm bí mật, thái độ của các tòa án Trung Quốc đã chuyển từ tiêu cực sang tích cực.
Trước đây, các tòa án Trung Quốc cho rằng các đoạn ghi âm bí mật là bất hợp pháp và do đó hoàn toàn không thể được sử dụng làm bằng chứng. [1] Tuy nhiên, quy định như vậy đã hạn chế quá mức các phương tiện thu thập bằng chứng của các bên và do đó đã bị nhiều người phản đối và chỉ trích. Năm 2001, các tòa án Trung Quốc đã nới lỏng các hạn chế đối với ghi âm bí mật và thừa nhận tư cách của nó là bằng chứng với điều kiện nó không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng như không vi phạm các điều khoản nghiêm cấm của pháp luật. Đến năm 2015, ghi âm bí mật nói chung có thể được sử dụng làm bằng chứng trừ khi nó xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vi phạm các quy định cấm của pháp luật hoặc được thu thập theo cách vi phạm trật tự công cộng và đạo đức tốt. [2]
Ngoài các tiêu chí trên, một số giám khảo cũng đưa ra các điểm sau:
1. Bên liên quan phải có mặt tại thời điểm ghi âm, và tốt hơn hết là bên đó tự mình thực hiện việc ghi âm.
2. Việc ghi âm bí mật không được thực hiện ở nơi cấm ghi âm, cũng như không được gian lận hoặc ép buộc;
3. Nói chung, bản ghi âm không thể được sử dụng làm cơ sở để tìm ra sự thật, và nó phải được sử dụng cùng với các bằng chứng khác để đạt được hiệu quả của việc chứng minh. [3]
II. Loại ghi âm nào không chắc sẽ được chấp nhận?
Theo kinh nghiệm của chúng tôi, trong các trường hợp sau, các bản ghi có thể bị loại bỏ:
1. Nếu ai đó gửi bản ghi âm cuộc trò chuyện mà tất cả những người tham gia đã đồng ý “không ghi âm” ngay từ đầu, thì việc ghi âm kiểu này rất có thể bị coi là bất hợp pháp vì vi phạm quyền riêng tư;
2. Trường hợp ghi âm có nội dung gian lận và cưỡng chế;
3. Nơi thu thập ghi âm theo cách có thể vi phạm trật tự công cộng và đạo đức tốt. Ví dụ, trong một vụ ly hôn, một bên xúi giục một đứa trẻ nói chuyện với bên kia và ghi âm cuộc trò chuyện một cách bí mật;
4. Trường hợp thu thập ghi âm bằng cách sử dụng trái phép thiết bị giám sát chuyên nghiệp;
5. Nơi ghi âm được thu thập bằng cách lắp đặt thiết bị trong không gian riêng tư của người khác (chẳng hạn như phòng ngủ hoặc xe hơi);
6. Nơi ghi âm được thu thập ở nơi bị cấm (chẳng hạn như trong phòng xử án);
7. Nơi ghi âm được thu thập bằng cách xâm nhập vào máy tính hoặc điện thoại di động thông qua chương trình Trojan.
III. Bằng chứng ghi chép lý tưởng như thế nào?
Bằng chứng ghi chép lý tưởng thường có các đặc điểm sau:
1. Việc ghi âm nên được thực hiện bởi cá nhân các bên liên quan;
2. Thông tin cơ bản của cuộc trò chuyện như thời gian, địa điểm và danh tính của những người tham gia phải rõ ràng;
3. Giọng điệu trong cuộc trò chuyện tốt hơn nên bình tĩnh;
4. Cuộc trò chuyện tốt hơn nên tập trung vào các sự kiện đang tranh chấp và tránh tranh luận vô nghĩa;
5. Phương tiện gốc (như bút ghi âm và điện thoại di động) phải được bảo quản tốt;
6. Nếu việc ghi chép có ý nghĩa quan trọng cao thì nên nhờ công chứng viên công chứng quá trình ghi chép.
Cuối cùng, chúng tôi cần nhắc nhở độc giả rằng bằng chứng tài liệu vẫn là bằng chứng quan trọng nhất trong hoạt động tư pháp của Trung Quốc (Xem bài đăng Bằng chứng tài liệu - Vua bằng chứng trong tố tụng dân sự Trung Quốc), trong khi bằng chứng ghi lại thường được sử dụng làm bằng chứng bổ trợ.
Tài liệu tham khảo:
[1] 《最高人民法院 关于 未经 对方 当事人 同意 私自 录音 取得 的 资料 能否 作为 证据 使用 问题 的 批复》 (复 [1995] 2 号) 曾 规定 “未经 对方 当事人 同意 私自 录制 其 其 谈话 , [XNUMX] XNUMX 号) 曾 规定“ 未经 对方 当事人 同意 私自 录制 其 谈话 , 系不 合法 行为 , 以 这种 手段 取得 的 录音 资料 , 不能 作为 证据 使用。 ”
[2] 《最高人民法院 关于 民事诉讼 证据 的 若干 规定》 中 “以 侵害 他人 合法 权益 或者 违反 法律 禁止 性 规定 的 方法 取得 的 证据 不能 作为 认定 案件 事实 的 依据。“ 《他人 权益 或者 违反 作为 认定 案件 事实 的 依据。 ”和 《最高人民法院 关于 适用<中华人民共和国 民事诉讼 法> 的 解释》 第 106 条 关于 "对 以 严重 侵害 他人 合法 权益 、 违反 法律 禁止 规定 或者 或者 严重 序 良 俗 的 方法 形成 或者 获取"
[3] 案 号 : 一审 (2006) 宣 民初 字 00745 号 ; 二审 (2006) 一 中 民 终 字 7422 75 号。 王磊 (二审 主 审 法官) 《人民 2008 第 XNUMX 年
案 号 : 一审 (2006) 崂 民 三 初 字 第 241 号。 朱铁军 《人民 司法 (案例)》 78 2008 年
Ảnh của Allec Gomes (https://unsplash.com/@allecgomes) trên Unsplash.
Đóng góp: Chenyang Zhang 张 辰 扬 , Xuân Triệu 赵 暄