Luật Bồi thường của Nhà nước được ban hành năm 1994 và được sửa đổi bổ sung vào các năm 2010 và 2012, sửa đổi mới nhất có hiệu lực từ ngày 1/2013/XNUMX.
Tổng cộng có 42 bài báo.
Các điểm chính như sau:
1- Khi thực hiện chức năng của mình, cơ quan nhà nước, cơ quan chức năng của nhà nước có hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân hoặc bất kỳ tổ chức nào khác theo quy định của Luật này mà gây thiệt hại thì người bị thiệt hại. được Nhà nước bồi thường theo quy định của Luật này.
2.Công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác được cải thiện có quyền yêu cầu bồi thường.
3.Để yêu cầu bồi thường, trước hết người yêu cầu bồi thường phải nộp đơn đến cơ quan có nghĩa vụ bồi thường. Trong trường hợp người yêu cầu bồi thường phản đối cách thức, hạng mục hoặc số tiền bồi thường hoặc nếu cơ quan có nghĩa vụ bồi thường quyết định không bồi thường thì trong thời hạn ba tháng kể từ ngày cơ quan có nghĩa vụ bồi thường quyết định bồi thường thực hiện bồi thường hoặc không bồi thường, khởi kiện ra tòa án.
4. Nhà nước bồi thường sẽ được thực hiện dưới hình thức thanh toán thiệt hại chính. Nếu quyền tự do con người của công dân bị xâm phạm thì việc bồi thường cho mỗi ngày được đánh giá theo mức lương bình quân hàng ngày của Nhà nước đối với cán bộ, công nhân viên trong năm trước.
5.Luật này sẽ được áp dụng để yêu cầu bồi thường nhà nước của một người nước ngoài, doanh nghiệp hoặc tổ chức nước ngoài trên lãnh thổ Trung Quốc chống lại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
6.Nếu quốc gia mẹ của người nước ngoài, doanh nghiệp hoặc tổ chức nước ngoài không bảo vệ hoặc áp đặt các hạn chế đối với quyền của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác của Trung Quốc yêu cầu bồi thường nhà nước từ quốc gia đó, Trung Quốc sẽ tuân theo nguyên tắc có đi có lại đối với trạng thái mẹ của người nước ngoài, doanh nghiệp hoặc tổ chức nước ngoài nói trên.