Luật Doanh nghiệp Hợp danh được ban hành vào năm 1973 và được sửa đổi lần lượt vào năm 2005. Bản sửa đổi mới nhất có hiệu lực vào ngày 1 tháng 2017 năm XNUMX.
Tổng cộng có 109 bài báo.
Các điểm chính như sau:
1. Doanh nghiệp hợp danh là doanh nghiệp hợp danh chung hoặc doanh nghiệp hợp danh hữu hạn. (Điều 2)
Doanh nghiệp hợp danh do các thành viên hợp danh thành lập, trong đó các thành viên hợp danh cùng chịu trách nhiệm chung không giới hạn về các khoản nợ của doanh nghiệp hợp danh. (Điều 2)
3. Doanh nghiệp hợp danh do các thành viên hợp danh và thành viên hợp danh thành lập, trong đó các thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm riêng không giới hạn các khoản nợ của doanh nghiệp hợp danh và các thành viên hợp danh chịu các khoản nợ của doanh nghiệp hợp danh theo số vốn đăng ký sự đóng góp. (Điều 2)
4. Các tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp cung cấp các dịch vụ chuyên môn và kỹ năng có thu phí cho khách hàng có thể được thành lập như một doanh nghiệp hợp danh chung đặc biệt. Trường hợp doanh nghiệp hợp danh phát sinh các khoản nợ do một hoặc nhiều thành viên hợp danh có hành vi cố ý hoặc cẩu thả trong quá trình cung cấp dịch vụ nghề nghiệp, thì đối tác chịu trách nhiệm (Điều này) phải chịu trách nhiệm vô hạn hoặc trách nhiệm vô hạn liên đới và một số đối tác khác các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng phần tài sản tương ứng của mình trong doanh nghiệp hợp danh. (Điều 55 và 56)
5.Các công ty do Nhà nước làm chủ sở hữu và 3% vốn Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, công ty niêm yết và các tổ chức từ thiện, tổ chức xã hội không được là thành viên hợp danh. (Điều XNUMX)
6- Thành viên hợp danh không được yêu cầu phân chia tài sản trong doanh nghiệp hợp danh trước khi tiến hành thủ tục thanh lý doanh nghiệp hợp danh. (Điều 21)