Cổng thông tin pháp luật Trung Quốc - CJO

Tìm luật pháp và tài liệu công chính thức của Trung Quốc bằng tiếng Anh

Tiếng AnhTiếng Ả RậpTiếng Trung (giản thể)Tiếng Hà LanTiếng PhápTiếng ĐứcTiếng Hin-ddiTiếng ÝTiếng NhậtTiếng HànBồ Đào NhaTiếng NgaTiếng Tây Ban NhaTiếng Thụy ĐiểnHebrewTiếng IndonesiaTiếng ViệtTiếng TháiTiếng Thổ Nhĩ KỳNgười Malay

Luật Ủy thác của Trung Quốc (2001)

信托 法

Loại luật Luật

Cơ quan phát hành Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc

Ngày ban hành Tháng Tư 28, 2001

Ngày có hiệu lực Tháng Mười 01, 2001

Tình trạng hợp lệ Hợp lệ

Phạm vi áp dụng Trên toàn quốc

Chủ đề Tài chính Ngân hàng Luật công ty / Luật doanh nghiệp

Biên tập viên CJ Observer

Luật Ủy thác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(Được thông qua tại Hội nghị lần thứ 21 của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ IX ngày 28 tháng 2001 năm 50 và theo Lệnh số 28 của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 2001 tháng XNUMX năm XNUMX)
Nội dung
Chương I Các quy định chung
Chương II Tạo niềm tin
Chương III Tài sản ủy thác
Chương IV Các Bên liên quan trong Ủy thác
Phần 1 Người định cư
Phần 2 Người được ủy thác
Phần 3 Người thụ hưởng
Chương V Sửa đổi và Chấm dứt Ủy thác
Chương VI Ủy thác từ thiện
Chương VII Các điều khoản bổ sung
Chương I Các quy định chung
Điều 1 Luật này được ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ ủy thác, tiêu chuẩn hóa các hành vi ủy thác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ủy thác và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của hoạt động ủy thác.
Điều 2 Theo mục đích của Luật này, ủy thác đề cập đến việc người định cư, dựa trên niềm tin của mình vào người được ủy thác, giao quyền tài sản của mình cho người được ủy thác và cho phép người được ủy thác, theo ý muốn của người định cư và nhân danh người được ủy thác, quản lý hoặc định đoạt tài sản đó vì lợi ích của người thụ hưởng hoặc cho bất kỳ mục đích dự định nào.
Điều 3 Luật này sẽ được áp dụng cho những người định cư, người được ủy thác và người thụ hưởng (sau đây gọi chung là "các bên liên quan") tham gia vào các hoạt động ủy thác dân sự, kinh doanh hoặc phúc lợi công cộng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Điều 4 Đối với những người được uỷ thác tham gia vào các hoạt động uỷ thác dưới hình thức các tổ chức uỷ thác, Hội đồng Nhà nước sẽ xây dựng các biện pháp cụ thể để tổ chức và điều hành các tổ chức đó.
Điều 5. Khi thực hiện hoạt động ủy thác, các bên liên quan phải tuân theo pháp luật và các quy định hành chính, tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, công bằng, thiện chí, không làm phương hại đến lợi ích của Nhà nước và của công chúng.
Chương II Tạo niềm tin
Điều 6 Quỹ ủy thác sẽ được tạo ra cho các mục đích ủy thác hợp pháp.
Điều 7. Để tạo lập quỹ ủy thác, phải có tài sản xác định được ủy thác và tài sản đó phải là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người định đoạt.
Theo mục đích của Luật này, tài sản bao gồm quyền tài sản hợp pháp.
Điều 8 Việc tạo ra một quỹ tín thác sẽ được thực hiện dưới hình thức văn bản.
Hình thức văn bản bao gồm hợp đồng ủy thác, di chúc hoặc các tài liệu khác được pháp luật và các quy định hành chính quy định.
Trong trường hợp ủy thác được tạo ra dưới hình thức hợp đồng ủy thác, ủy thác sẽ được coi là được tạo ra khi hợp đồng nói trên được ký kết. Trong trường hợp ủy thác được tạo ra bằng bất kỳ hình thức văn bản nào khác, ủy thác được coi là được tạo ra khi người được ủy thác chấp nhận ủy thác.
Điều 9 Các mục sau đây sẽ được trình bày rõ ràng trong các tài liệu bằng văn bản cần thiết để tạo ra một quỹ tín thác:
(1) mục đích của ủy thác;
(2) tên và địa chỉ của người định cư và người được ủy thác;
(3) người thụ hưởng hoặc người thụ hưởng;
(4) phạm vi, loại và tình trạng của tài sản được ủy thác; và
(5) hình thức và phương tiện mà thông qua đó người thụ hưởng thu được lợi ích từ việc ủy ​​thác.
Ngoài các mục được đề cập ở trên, thời hạn của ủy thác, các phương thức quản lý tài sản được ủy thác, thù lao phải trả cho người được ủy thác, cách thức chỉ định một người được ủy thác khác, nguyên nhân chấm dứt ủy thác, v.v. thông suốt.
Điều 10 Trong trường hợp luật hoặc quy định hành chính quy định rằng các thủ tục đăng ký sẽ được thực hiện để tạo quỹ tín thác, thì các thủ tục đó sẽ được thực hiện tương ứng.
Bất kỳ ai không thực hiện các thủ tục đăng ký quy định tại khoản trên sẽ làm các thủ tục theo yêu cầu; nếu không, sự ủy thác sẽ không có hiệu lực.
Điều 11 Trong bất kỳ trường hợp nào sau đây, ủy thác sẽ vô hiệu:
(1) Các mục đích của ủy thác là vi phạm pháp luật hoặc các quy định hành chính hoặc làm suy giảm lợi ích công cộng.
(2) Tài sản được ủy thác không thể sửa chữa được;
(3) Người dàn xếp tạo lập quỹ tín thác bằng tài sản bất hợp pháp hoặc bằng tài sản mà theo luật này, không được dùng để tạo niềm tin;
(4) Ủy thác được tạo ra đặc biệt với mục đích thực hiện các hành động pháp lý hoặc để thu hồi các khoản nợ;
(5) Không xác định được người thụ hưởng hoặc người thụ hưởng; và
(6) Các trường hợp khác do luật hoặc quy định hành chính quy định.
Điều 12. Trường hợp người giải quyết ủy thác gây thiệt hại cho lợi ích của chủ nợ thì chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thu hồi ủy thác.
Trong trường hợp Tòa án nhân dân thu hồi ủy thác theo quy định tại khoản trên, thì lợi ích đã có từ ủy thác của người được ủy thác chân chính sẽ không bị ảnh hưởng.
Quyền nộp đơn quy định tại khoản đầu tiên của Điều này sẽ bị chấm dứt nếu quyền đó không được thực hiện trong vòng một năm kể từ ngày chủ nợ biết hoặc cần biết lý do thu hồi ủy thác.
Điều 13 Đối với việc tạo ra một ủy thác theo di chúc, các quy định trong Luật Kế thừa liên quan đến việc thừa kế theo di chúc sẽ được tuân thủ.
Trường hợp người được chỉ định trong di chúc từ chối hoặc không thể làm người được ủy thác, thì người thụ hưởng sẽ chỉ định người khác làm người được ủy thác; trong trường hợp người thụ hưởng là người không có năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ chỉ định người nhận ủy thác thay cho người đó. Nếu có các quy định khác trong văn bản di chúc để điều chỉnh việc chỉ định một người được ủy thác thì các quy định đó sẽ được ưu tiên áp dụng.
Chương III Tài sản ủy thác
Điều 14 Tài sản mà người được ủy thác có được do một sự ủy thác được chấp nhận là tài sản ủy thác.
Tài sản mà người được ủy thác có được thông qua việc quản lý, sử dụng hoặc định đoạt tài sản ủy thác hoặc bằng các phương tiện khác thuộc tài sản ủy thác.
Không có tài sản nào bị pháp luật và các quy định hành chính cấm lưu hành có thể được coi là tài sản ủy thác.
Tài sản bị hạn chế bởi luật pháp và các quy định hành chính có thể được coi là tài sản ủy thác khi cơ quan có thẩm quyền liên quan phê duyệt, theo quy định của pháp luật.
Điều 15 Sự ủy thác phải được phân biệt với các tài sản khác mà người định cư không ủy thác. Trường hợp sau khi ủy thác được lập mà người định cư chết hoặc bị giải thể hoặc bị hủy bỏ theo quy định của pháp luật hoặc bị tuyên bố phá sản mà người định cư là người thụ hưởng duy nhất thì quỹ ủy thác chấm dứt và tài sản ủy thác là tài sản thanh lý di sản của người đó; nếu người định cư không phải là người thụ hưởng duy nhất, thì ủy thác sẽ tồn tại, và tài sản ủy thác sẽ không phải là tài sản di sản hoặc tài sản thanh lý của anh ta; nhưng nếu người định cư là một trong những người đồng thụ hưởng và chết hoặc bị giải thể, bị hủy bỏ theo luật định, hoặc bị tuyên bố phá sản thì quyền hưởng lợi từ ủy thác được coi là di sản hoặc tài sản thanh lý của người đó.
Điều 16.
Trong trường hợp người được ủy thác qua đời hoặc người được ủy thác với tư cách là một công ty cơ quan bị giải thể, bị xóa bỏ hoặc bị tuyên bố phá sản theo luật, và quyền ủy thác do đó chấm dứt, thì tài sản ủy thác sẽ không được coi là tài sản di sản hoặc tài sản thanh lý của người đó.
Điều 17. Không được áp dụng các biện pháp bắt buộc đối với tài sản ủy thác trừ khi phát sinh một trong các trường hợp sau:
(1) Trong trường hợp trước khi tạo ra ủy thác, các chủ nợ được hưởng quyền ưu tiên được thanh toán bằng tài sản ủy thác và có thể thực hiện quyền này theo quy định của pháp luật;
(2) khi chủ nợ yêu cầu hoàn trả các khoản nợ mà người được ủy thác phát sinh trong quá trình xử lý hoạt động kinh doanh ủy thác;
(3) khi thuế được đánh vào chính tài sản ủy thác; và
(4) các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Trong trường hợp áp dụng các biện pháp bắt buộc đối với tài sản ủy thác vi phạm quy định tại khoản trên thì người giải quyết, nhận ủy thác và người thụ hưởng có quyền phản đối Tòa án nhân dân.
Điều 18. Các khiếu nại phát sinh từ việc quản lý hoặc định đoạt tài sản ủy thác của người được ủy thác không được sử dụng để bù đắp các khoản nợ phải trả đối với tài sản của chính người được ủy thác.
Tương tự, các khiếu nại phát sinh từ việc quản lý và định đoạt tài sản ủy thác của những người định cư khác nhau không được sử dụng để bù đắp các khoản nợ phải trả của người được ủy thác.
Chương IV Các Bên liên quan trong Ủy thác
Phần 1 Người định cư
Điều 19. Người giải quyết phải là thể nhân, pháp nhân hoặc tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật có đủ năng lực hành vi dân sự.
Điều 20. Người giải quyết có quyền biết việc quản lý, sử dụng và định đoạt, thu nhập và chi phí liên quan đến tài sản ủy thác của mình, và có quyền yêu cầu người được ủy thác giải thích về vấn đề này.
Người định cư có quyền kiểm tra, sao chép hoặc sao chép các tài khoản ủy thác liên quan đến tài sản ủy thác của mình và các tài liệu khác được lập trong quá trình giao dịch với doanh nghiệp ủy thác.
Điều 21. Trường hợp vì những lý do đặc biệt không mong muốn tại thời điểm lập quỹ ủy thác, phương thức quản lý tài sản ủy thác không thuận lợi cho việc thực hiện mục đích ủy thác hoặc không phù hợp với lợi ích của người thụ hưởng thì người định đoạt có quyền để yêu cầu người được ủy thác sửa đổi các phương pháp đó.
Điều 22 Trong trường hợp người được ủy thác xử lý tài sản ủy thác vi phạm các mục đích của ủy thác, hoặc gây thiệt hại cho tài sản ủy thác do rời nhiệm vụ hành chính hoặc xử lý không đúng công việc kinh doanh ủy thác, thì người quyết định có quyền áp dụng Toà án nhân dân huỷ bỏ việc định đoạt đó và có quyền yêu cầu bên nhận uỷ thác khôi phục tài sản như cũ hoặc bồi thường. Trường hợp bên nhận tài sản ủy thác nhận tài sản mà biết rõ hành vi vi phạm mục đích của ủy thác thì phải trả lại tài sản hoặc bồi thường.
Trường hợp người định cư không thực hiện quyền áp dụng quy định tại khoản trên trong vòng một năm kể từ ngày biết hoặc lẽ ra phải biết lý do hủy bỏ việc định đoạt thì quyền đó sẽ chấm dứt tồn tại.
Điều 23 Trong trường hợp người được ủy thác định đoạt tài sản ủy thác trái với mục đích của ủy thác hoặc có sơ suất nghiêm trọng trong việc quản lý, sử dụng hoặc định đoạt tài sản ủy thác, thì người định cư có quyền bãi nhiệm người được ủy thác theo quy định trong các tài liệu ủy thác hoặc đệ đơn lên Tòa án nhân dân xin bãi nại.
Phần 2 Người được ủy thác
Điều 24 Người được ủy thác phải là một thể nhân hoặc pháp nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Trong trường hợp có các quy định khác điều chỉnh tư cách của người được ủy thác được quy định trong luật hoặc quy định hành chính, thì những quy định đó sẽ được ưu tiên áp dụng.
Điều 25 Người được ủy thác phải tuân theo các quy định trong các tài liệu ủy thác và xử lý hoạt động kinh doanh ủy thác vì lợi ích tốt nhất của người thụ hưởng.
Trong việc quản lý tài sản ủy thác, người được ủy thác phải thận trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ và thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực, thiện chí, thận trọng và hiệu quả.
Điều 26. Ngoại trừ việc nhận thù lao theo quy định của Luật này, bên nhận ủy thác không được trục lợi bằng cách sử dụng tài sản ủy thác.
Trong trường hợp người được ủy thác, vi phạm các quy định của khoản trên, tìm kiếm lợi ích cho mình bằng cách sử dụng tài sản ủy thác, thì lợi ích thu được từ tài sản ủy thác đó sẽ được tích hợp vào tài sản ủy thác.
Điều 27 Người được ủy thác không được chuyển tài sản ủy thác thành tài sản riêng của mình. Trường hợp người được ủy thác chuyển tài sản ủy thác thành tài sản riêng của mình thì người đó sẽ khôi phục tài sản ủy thác về trạng thái cũ; trường hợp tài sản ủy thác bị thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Điều 28. Giá thị trường.
Trường hợp bên nhận ủy thác vi phạm các quy định tại khoản trên mà gây thiệt hại cho tài sản ủy thác thì bên ủy thác phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Điều 29 Người được ủy thác sẽ quản lý tài sản ủy thác tách biệt với tài sản của chính mình và giữ sổ sách kế toán riêng biệt, và anh ta sẽ làm như vậy đối với tài sản ủy thác của những người định cư khác nhau.
Điều 30.
Theo quy định của pháp luật, người được ủy thác ủy thác cho người khác thay mình xử lý công việc kinh doanh ủy thác thì người đó phải chịu trách nhiệm về hành vi của người đó trong việc giải quyết công việc đó.
Điều 31 Trường hợp có hai hoặc nhiều người được ủy thác trong cùng một quỹ ủy thác thì họ là người đồng ủy thác.
Các đồng ủy thác sẽ cùng xử lý công việc kinh doanh ủy thác, nhưng khi các tài liệu ủy thác quy định rằng các ủy viên có thể giải quyết riêng một số công việc cụ thể, thì các quy định đó sẽ được ưu tiên áp dụng.
Nếu các đồng ủy viên không đồng ý với nhau khi cùng xử lý công việc kinh doanh ủy thác thì vấn đề sẽ được xử lý theo quy định trong các văn bản ủy thác; nếu không có quy định nào về vấn đề này trong các văn bản thì người giải quyết, người thụ hưởng hoặc bên quan tâm sẽ ra quyết định.
Điều 32 Các đồng ủy thác phát sinh nợ cho bên thứ ba trong quá trình xử lý hoạt động kinh doanh ủy thác phải liên đới chịu một số trách nhiệm thanh toán các khoản nợ. Ý định được bên thứ ba bày tỏ với bất kỳ một trong các đồng ủy thác sẽ có hiệu lực như nhau đối với các đồng ủy thác khác.
Trường hợp một trong những người đồng ủy thác định đoạt tài sản ủy thác trái với mục đích của ủy thác hoặc gây ra tổn thất cho tài sản ủy thác do rời nhiệm vụ hành chính hoặc xử lý không đúng công việc kinh doanh ủy thác, thì những người đồng ủy thác khác sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới và một số trách nhiệm bồi thường.
Điều 33 Người được ủy thác phải lưu giữ hồ sơ đầy đủ về công việc kinh doanh ủy thác đã xử lý.
Định kỳ hàng năm, người được ủy thác phải báo cáo cho người định cư và người thụ hưởng về việc quản lý và định đoạt tài sản ủy thác cũng như thu nhập và chi phí liên quan đến tài sản đó.
Người được ủy thác, theo quy định của pháp luật, có nghĩa vụ giữ bí mật các biên bản liên quan đến người định cư, người thụ hưởng và doanh nghiệp ủy thác được xử lý.
Điều 34 Người nhận ủy thác có nghĩa vụ thanh toán cho người thụ hưởng lợi ích từ việc ủy ​​thác với giới hạn tài sản ủy thác.
Điều 35 Người được ủy thác có quyền nhận thù lao theo thỏa thuận trong các tài liệu ủy thác. Trong trường hợp không có thỏa thuận như vậy trong các tài liệu, một thỏa thuận bổ sung có thể được thực hiện với sự đồng ý của các bên liên quan sau khi tham khảo ý kiến; trong trường hợp không có thỏa thuận trước hoặc thỏa thuận bổ sung, không được yêu cầu thù lao.
Mức thù lao đã thỏa thuận có thể được tăng hoặc giảm với sự đồng ý của các bên liên quan sau khi tham khảo ý kiến.
Điều 36 Trong trường hợp người được ủy thác định đoạt tài sản ủy thác trái với mục đích của ủy thác hoặc gây ra tổn thất cho tài sản ủy thác do rời nhiệm vụ hành chính hoặc xử lý không đúng công việc kinh doanh ủy thác, anh ta không được yêu cầu được thanh toán trước khi khôi phục tài sản ủy thác. tài sản về trạng thái cũ hoặc bồi thường.
Điều 37 Các khoản phí đã thanh toán và các khoản nợ mà người được ủy thác phải trả cho bên thứ ba trong quá trình xử lý hoạt động kinh doanh ủy thác sẽ do tài sản ủy thác chịu. Trường hợp người được ủy thác thực hiện việc thanh toán trước bằng tài sản của mình thì người đó có quyền ưu tiên được thanh toán bằng tài sản ủy thác.
Các khoản nợ đối với bên thứ ba hoặc những thiệt hại mà bản thân phải gánh chịu do rời bỏ nhiệm vụ hành chính hoặc việc xử lý không đúng công việc kinh doanh ủy thác của anh ta sẽ do anh ta tự gánh chịu bằng tài sản của mình.
Điều 38 Sau khi tạo quỹ tín thác, với sự đồng ý của người định cư và người thụ hưởng, người được ủy thác có thể từ chức. Trong trường hợp có các quy định khác trong Luật này điều chỉnh việc từ chức của người được ủy thác của quỹ phúc lợi công cộng, thì các quy định đó sẽ được ưu tiên áp dụng.
Trong trường hợp người được ủy thác từ chức, anh ta sẽ, trước khi một người được ủy thác khác được chỉ định, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ quản lý doanh nghiệp ủy thác.
Điều 39 Trong một trong các trường hợp sau đây, việc bổ nhiệm của người được ủy thác sẽ bị chấm dứt:
(1) người đó chết hoặc bị tuyên bố là đã chết theo luật định;
(2) người đó được tuyên bố là người không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
(3) quyền ủy thác của anh ta bị xóa bỏ hoặc anh ta bị tuyên bố phá sản;
(4) quyền ủy thác của anh ta bị giải thể theo quy định của pháp luật hoặc anh ta bị mất tư cách pháp lý của mình;
(5) anh ta từ chức hoặc bị bãi nhiệm; hoặc là
(6) các trường hợp khác được quy định trong luật hoặc các quy định hành chính.
Khi việc bổ nhiệm của người được ủy thác chấm dứt, người kế nhiệm hoặc người giám sát di sản, người giám hộ hoặc người thanh lý sẽ giữ tài sản ủy thác và giúp người được ủy thác mới tiếp quản công việc kinh doanh ủy thác.
Điều 40 Khi việc bổ nhiệm của người được ủy thác chấm dứt, một người được ủy thác mới sẽ được chỉ định theo các quy định trong các tài liệu ủy thác; trường hợp văn bản không có quy định này thì hẹn người giải quyết; trường hợp người giải quyết không hẹn hoặc không có khả năng thực hiện thì người thụ hưởng chỉ định một người; trong trường hợp người thụ hưởng là người không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo quy định của pháp luật, người giám hộ của người đó phải thực hiện việc cử người đó thay mặt.
Người được ủy thác mới sẽ tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ của người được ủy thác cũ trong việc xử lý hoạt động kinh doanh ủy thác.
Điều 41 Trong trường hợp người được ủy thác bị phát hiện thuộc một trong các trường hợp được liệt kê trong các đoạn từ 3 đến 6 của khoản đầu tiên Điều 39 của luật này và việc bổ nhiệm của anh ta do đó bị chấm dứt, anh ta sẽ xuất trình một báo cáo về việc kinh doanh ủy thác đã được xử lý và thông qua các thủ tục để bàn giao tài sản và công việc ủy ​​thác cho người được ủy thác mới.
Sau khi người định cư hoặc người thụ hưởng chấp nhận báo cáo, được đề cập ở đoạn trên, người được ủy thác ban đầu sẽ được miễn trách nhiệm đối với các vấn đề được liệt kê trong báo cáo, ngoại trừ những hành vi bất hợp pháp do anh ta thực hiện.
Điều 42 Khi việc bổ nhiệm một trong những người đồng ủy thác bị chấm dứt, tài sản ủy thác sẽ được quản lý và định đoạt bởi những người còn lại.
Phần 3 Người thụ hưởng
Điều 43 Người thụ hưởng là người có quyền hưởng lợi từ ủy thác. Người đó có thể là một thể nhân, pháp nhân hoặc một tổ chức được thành lập theo luật định.
Người định cư có thể là người thụ hưởng và cũng có thể là người thụ hưởng duy nhất dưới sự ủy thác tương tự.
Người được ủy thác có thể là người thụ hưởng nhưng có thể không phải là người thụ hưởng duy nhất trong cùng một ủy thác.
Điều 44 Người thụ hưởng sẽ được hưởng quyền lợi từ việc ủy ​​thác bắt đầu từ ngày ủy thác có hiệu lực, trừ khi có quy định khác trong các tài liệu ủy thác.
Điều 45 Những người đồng nhận ủy thác được hưởng hoa lợi theo quy định trong hồ sơ ủy thác. Trong trường hợp không có tỷ lệ phần trăm hoặc phương pháp phân phối lợi ích từ ủy thác được quy định trong các tài liệu, tất cả những người thụ hưởng sẽ được hưởng lợi ích như nhau.
Điều 46 Người thụ hưởng có thể từ bỏ quyền hưởng lợi từ ủy thác.
Khi tất cả những người thụ hưởng từ bỏ quyền hưởng lợi từ một quỹ ủy thác, thì quỹ ủy thác sẽ bị chấm dứt.
Trong trường hợp một số người thụ hưởng từ bỏ quyền hưởng lợi từ ủy thác, quyền được từ bỏ sẽ thuộc về người đó theo thứ tự ưu tiên sau:
(1) những người được chỉ định trong các tài liệu ủy thác;
(2) những người thụ hưởng khác; và
(3) người định cư hoặc người kế nhiệm.
Điều 47 Trong trường hợp người thụ hưởng không thể trả được các khoản nợ đến hạn, quyền được hưởng lợi từ ủy thác có thể được sử dụng để trả nợ, trừ trường hợp bị hạn chế bởi các quy định của pháp luật, quy định hành chính và các văn bản ủy thác.
Điều 48 Theo quy định của pháp luật, người thụ hưởng có thể chuyển giao quyền hưởng lợi từ ủy thác hoặc có quyền kế thừa, ngoại trừ điều này bị hạn chế bởi các quy định trong các tài liệu ủy thác.
Điều 49 Người thụ hưởng có thể thực hiện các quyền mà người định cư được hưởng theo quy định từ Điều 20 đến Điều 23 của Luật này. Trong khi thực hiện các quyền nói trên, người thụ hưởng có quan điểm khác với quan điểm của người thụ hưởng thì có thể nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân quyết định.
Trường hợp bên nhận ủy thác thực hiện hành vi quy định tại khoản 22 Điều XNUMX của Luật này và một trong những người đồng thụ hưởng yêu cầu Tòa án nhân dân hủy bỏ việc định đoạt tài sản ủy thác thì quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực thi hành. có hiệu quả đối với tất cả những người đồng hưởng lợi.
Chương V Sửa đổi và Chấm dứt Ủy thác
Điều 50 Trong trường hợp người định cư là người thụ hưởng duy nhất, người đó hoặc người kế nhiệm có thể thu hồi ủy thác. Nếu nó được quy định khác trong các tài liệu ủy thác, thì các điều khoản ở đó sẽ được ưu tiên áp dụng.
Điều 51 Sau khi quỹ ủy thác được tạo lập, người định cư có thể thay thế người thụ hưởng hoặc từ bỏ quyền hưởng lợi từ quỹ ủy thác theo một trong các trường hợp sau:
(1) người thụ hưởng có hành vi tra tấn chính đối với người định cư;
(2) người thụ hưởng có hành vi tra tấn chính đối với những người đồng hưởng lợi khác;
(3) sự thay đổi hoặc định đoạt giành được sự đồng ý của người thụ hưởng; và
(4) các trường hợp khác quy định trong các tài liệu ủy thác.
Theo một trong các trường hợp được liệt kê trong điểm (1), (3) và (4) ở đoạn trên, người định cư có thể thu hồi ủy thác.
Điều 52 Ủy thác sẽ không bị chấm dứt do người định cư hoặc người được ủy thác chết, mất năng lực hành vi dân sự, ủy thác bị giải thể hoặc bị hủy bỏ theo pháp luật hoặc bị tuyên bố phá sản, cũng không bị chấm dứt do thực tế. rằng người được ủy thác từ chức, trừ trường hợp Luật này hoặc các tài liệu ủy thác có quy định khác.
Điều 53 Trong một số trường hợp sau đây, quỹ ủy thác sẽ bị chấm dứt:
(1) phát sinh nguyên nhân chấm dứt nó được nêu trong các tài liệu ủy thác;
(2) việc tiếp tục của ủy thác đi ngược lại các mục đích của ủy thác;
(3) các mục đích của ủy thác đã được thực hiện hoặc không thể thực hiện được;
(4) các bên liên quan, thông qua tham vấn để chấm dứt nó;
(5) ủy thác bị hủy bỏ;
(6) ủy thác bị thu hồi.
Điều 54 Trong trường hợp ủy thác chấm dứt, tài sản ủy thác sẽ thuộc sở hữu của người được quy định trong các tài liệu ủy thác; nếu không có các thông số kỹ thuật như vậy trong các tài liệu, thứ tự ưu tiên sau sẽ được áp dụng để xác định quyền sở hữu:
(1) người thụ hưởng hoặc người kế nhiệm; và
(2) người định cư hoặc người kế nhiệm.
Điều 55 Sau khi quyền sở hữu đối với tài sản ủy thác được xác định theo quy định tại Điều trên, ủy thác sẽ được coi là còn tồn tại trong khi tài sản ủy thác đang được chuyển giao cho chủ sở hữu và chủ sở hữu được coi là người thụ hưởng.
Điều 56 Trong trường hợp xác định được ủy thác, Tòa án nhân dân áp dụng biện pháp bắt buộc đối với tài sản ủy thác ban đầu theo quy định tại Điều 17 của Luật này thì chủ sở hữu được coi là người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Điều 57 Khi chấm dứt ủy thác, người được ủy thác, theo quy định của Luật này, thực hiện quyền yêu cầu trả thù lao hoặc đòi bồi thường từ tài sản ủy thác, thì người được ủy thác có quyền cầm giữ tài sản đó hoặc yêu cầu cho chủ sở hữu của tài sản.
Điều 58 Khi một quỹ ủy thác chấm dứt, người được ủy thác phải lập một báo cáo thanh lý về công việc kinh doanh ủy thác đã xử lý. Trường hợp người thụ hưởng hoặc chủ sở hữu tài sản phản đối báo cáo, người được ủy thác sẽ được miễn trách nhiệm đối với các vấn đề được liệt kê trong báo cáo, trừ những hành vi bất hợp pháp do người đó thực hiện.
Chương VI Ủy thác từ thiện
Điều 59 Các quy định trong Chương này được áp dụng đối với các khoản ủy thác phúc lợi công cộng trong trường hợp không có quy định nào trong Chương này đối với một số vấn đề thì các quy định trong Luật này hoặc các luật khác có liên quan sẽ được áp dụng.
Điều 60 Một quỹ tín thác được tạo ra cho một trong các mục đích sau đây vì lợi ích công cộng là một quỹ tín thác phúc lợi công cộng:
(1) cứu trợ người nghèo;
(2) hỗ trợ cứu trợ đồng bào bị thiên tai;
(3) giúp đỡ người tàn tật;
(4) phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật và thể thao;
(5) phát triển các chủ trương y tế và sức khỏe cộng đồng;
(6) xây dựng các chủ trương bảo vệ môi trường và duy trì môi trường sinh thái; và
(7) phát triển các chủ trương phúc lợi công cộng khác.
Điều 61 Nhà nước khuyến khích phát triển các quỹ phúc lợi công cộng.
Điều 62 Một ủy thác phúc lợi công cộng sẽ được tạo ra và người được ủy thác của nó sẽ được chỉ định với sự chấp thuận của cơ quan quản lý phúc lợi công cộng có liên quan (sau đây gọi tắt là "cơ quan quản lý phúc lợi công cộng").
Nếu không có sự chấp thuận của cơ quan quản lý phúc lợi công cộng, không ai có thể thực hiện các hoạt động nhân danh quỹ tín thác phúc lợi công cộng.
Cơ quan quản lý phúc lợi công cộng sẽ hỗ trợ các hoạt động được thực hiện bởi các quỹ phúc lợi.
Điều 63 Không tài sản nào thuộc quỹ phúc lợi công cộng hoặc thu nhập từ quỹ này có thể được sử dụng cho các mục đích phúc lợi phi công cộng.
Điều 64 Người giám sát quỹ ủy thác sẽ được chỉ định cho các quỹ ủy thác phúc lợi công cộng.
Người giám sát ủy thác sẽ được nêu rõ trong các tài liệu ủy thác. Trường hợp không có thông số kỹ thuật như vậy, chúng sẽ được chỉ định bởi cơ quan quản lý phúc lợi công cộng.
Điều 65 Người giám sát ủy thác có quyền, nhân danh mình, khởi kiện hoặc các hành vi hợp pháp khác vì lợi ích của người thụ hưởng.
Điều 66 Không người được ủy thác của quỹ phúc lợi công cộng có thể từ chức mà không có sự chấp thuận của cơ quan quản lý phúc lợi công cộng.
Điều 67 Cơ quan quản lý phúc lợi công cộng sẽ kiểm tra người được ủy thác về cách người này xử lý các công việc phúc lợi công cộng và định đoạt tài sản.
Người được ủy thác, ít nhất mỗi năm một lần, lập báo cáo về việc kinh doanh ủy thác đã được xử lý và tình trạng tài sản được xử lý, và khi được người giám sát ủy thác chấp nhận, báo cáo sẽ được trình lên cơ quan quản lý phúc lợi công cộng để kiểm tra và phê duyệt, và người được ủy thác sẽ công bố báo cáo.
Điều 68 Trong trường hợp người được ủy thác đối với một ủy thác phúc lợi công cộng đi ngược lại các nghĩa vụ của mình theo ủy thác, hoặc không thể thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan quản lý phúc lợi công cộng sẽ thay thế người được ủy thác.
Điều 69 Nếu, sau khi quỹ tín thác phúc lợi công cộng được tạo ra, một sự kiện không lường trước được tại thời điểm tạo quỹ tín thác xảy ra, cơ quan quản lý phúc lợi công cộng có thể, trên cơ sở các mục đích của quỹ tín thác, sửa đổi các điều khoản liên quan trong quỹ tín thác. tài liệu.
Điều 70 Trong trường hợp quỹ ủy thác phúc lợi công cộng bị chấm dứt, trong vòng 15 ngày kể từ ngày phát sinh nguyên nhân chấm dứt, người được ủy thác phải báo cáo cho cơ quan quản lý phúc lợi công cộng về nguyên nhân chấm dứt và ngày chấm dứt ủy thác.
Điều 71 Khi chấm dứt ủy thác phúc lợi công cộng, người được ủy thác phải lập báo cáo thanh lý về doanh nghiệp ủy thác đã xử lý và sau khi được người giám sát ủy thác chấp nhận, trình cơ quan quản lý phúc lợi công cộng xem xét và phê duyệt, và báo cáo sẽ được công bố. bởi người được ủy thác.
Điều 72 Trong trường hợp, khi chấm dứt ủy thác phúc lợi công cộng, không có chủ sở hữu tài sản ủy thác, hoặc chủ sở hữu đó không phải là thành viên cụ thể của công chúng, người được ủy thác, khi được cơ quan quản lý phúc lợi công cộng chấp thuận, sử dụng ủy thác tài sản cho các mục đích tương tự như tài sản ban đầu hoặc chuyển giao cho các tổ chức phúc lợi công cộng hoặc các quỹ phúc lợi công cộng khác có mục đích tương tự.
Điều 73 Trong trường hợp cơ quan quản lý nhà nước vi phạm các quy định của Luật này thì người giải quyết, nhận ủy thác và người thụ hưởng có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân.
Chương VII Các điều khoản bổ sung
Điều 74 Luật này có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 2001 năm XNUMX.

Bản dịch tiếng Anh này đến từ Trang web NPC. Trong tương lai gần, một phiên bản tiếng Anh chính xác hơn do chúng tôi dịch sẽ có trên Cổng thông tin Luật pháp Trung Quốc.