Cổng thông tin pháp luật Trung Quốc - CJO

Tìm luật pháp và tài liệu công chính thức của Trung Quốc bằng tiếng Anh

Tiếng AnhTiếng Ả RậpTiếng Trung (giản thể)Tiếng Hà LanTiếng PhápTiếng ĐứcTiếng Hin-ddiTiếng ÝTiếng NhậtTiếng HànBồ Đào NhaTiếng NgaTiếng Tây Ban NhaTiếng Thụy ĐiểnHebrewTiếng IndonesiaTiếng ViệtTiếng TháiTiếng Thổ Nhĩ KỳNgười Malay

Luật Tố tụng Hình sự của Trung Quốc (2018)

Luật tố tụng hình sự

Loại luật Luật

Cơ quan phát hành Đại hội nhân dân toàn quốc

Ngày ban hành Tháng Mười 26, 2018

Ngày có hiệu lực Tháng Mười 26, 2018

Tình trạng hợp lệ Hợp lệ

Phạm vi áp dụng Trên toàn quốc

Chủ đề Tố tụng hình sự

Biên tập viên CJ Observer

Luật Tố tụng Hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(Thông qua tại Kỳ họp thứ hai của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ V ngày 1 tháng 1979 năm 17; được sửa đổi lần thứ nhất theo Quyết định sửa đổi Luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thông qua tại Kỳ họp thứ tư của Đại hội đồng nhân dân toàn quốc lần thứ VIII Quốc hội ngày 1996 tháng 11 năm 14; sửa đổi lần thứ hai theo Quyết định sửa đổi Luật Tố tụng Hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thông qua tại Kỳ họp thứ năm của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc lần thứ 2012 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 13 tháng 26, 2018; và được sửa đổi lần thứ ba theo Quyết định sửa đổi Luật Tố tụng Hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thông qua tại Kỳ họp thứ sáu của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lần thứ XNUMX vào ngày XNUMX tháng XNUMX năm XNUMX)
Nội dung
Phần Một Quy định Chung
Chương I Mục tiêu và Nguyên tắc Cơ bản
Chương II Thẩm quyền
Chương III Rút tiền
Chương IV Bảo vệ và Đại diện
Chương V bằng chứng
Chương VI Các biện pháp bắt buộc
Chương VII Hành động dân sự ngẫu nhiên
Chương VIII Khoảng thời gian và dịch vụ
Chương IX Các điều khoản khác
Phần hai Nộp hồ sơ vụ án, điều tra và bắt đầu truy tố công khai
Chương I Nộp hồ sơ
Chương II Điều tra
Phần 1 Các quy định chung
Phần 2 Thẩm vấn nghi phạm hình sự
Phần 3 Chất vấn Nhân chứng
Phần 4 Yêu cầu và Kiểm tra
Phần 5 Tìm kiếm
Phần 6 Niêm phong và thu giữ vật chứng và tài liệu chứng cứ
Phần 7 Đánh giá của chuyên gia
Phần 8 Các biện pháp điều tra kỹ thuật
Phần 9 Lệnh truy nã
Phần 10 Kết luận Điều tra
Mục 11 Điều tra vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý
Chương III Khởi tố Công tố
Phần ba Thử nghiệm
Chương I Các tổ chức thử nghiệm
Chương II Thủ tục sơ thẩm
Phần 1 Các trường hợp truy tố công khai
Phần 2 Các trường hợp truy tố riêng
Phần 3 Thủ tục Tóm tắt
Phần 4 Thủ tục Nhanh chóng
Chương III Thủ tục sơ thẩm
Chương IV Thủ tục xem xét lại bản án tử hình
Chương V Thủ tục giám sát việc xét xử
Thực hiện Phần bốn
Phần Năm Thủ tục Đặc biệt
Chương I Thủ tục các vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện
Chương II Thủ tục hòa giải giữa các bên liên quan trong các trường hợp truy tố công khai
Chương III Các thủ tục thử nghiệm khi vắng mặt
Chương IV Các thủ tục tịch thu lợi bất hợp pháp trong các trường hợp bị can hoặc bị cáo đã bỏ trốn hoặc chết
Chương V Các thủ tục bắt buộc điều trị y tế cho những người bị bệnh tâm thần không phải chịu trách nhiệm hình sự
Các điều khoản bổ sung
Phần Một Quy định Chung
Chương I Mục tiêu và Nguyên tắc Cơ bản
Điều 1 Luật được ban hành phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm thi hành đúng Luật Hình sự, trừng trị tội phạm, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Nhà nước, an ninh công cộng và giữ gìn trật tự công cộng xã hội chủ nghĩa.
Điều 2 Mục đích của Luật Tố tụng Hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như sau: đảm bảo rằng sự thật của tội phạm được xác định một cách chính xác và kịp thời, pháp luật được áp dụng một cách chính xác, những kẻ phạm tội bị trừng trị và những người vô tội được được bảo vệ khỏi bị truy cứu trách nhiệm hình sự và công dân được giáo dục để tuân theo pháp luật và đấu tranh mạnh mẽ chống lại các hành vi phạm tội, để duy trì hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền nhân thân, quyền tài sản, quyền dân chủ của công dân và các quyền khác quyền và bảo đảm tiến độ thuận lợi của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Điều 3 Cơ quan công an có trách nhiệm điều tra, giam giữ, thi hành án bắt giữ và điều tra sơ bộ vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân chịu trách nhiệm về công tác kiểm sát, ủy quyền phê chuẩn việc bắt, điều tra, khởi tố công khai những vụ án do Viện kiểm sát trực tiếp thụ lý. Toà án nhân dân có trách nhiệm xét xử. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, không cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khác có thẩm quyền thực hiện các quyền đó.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Công an phải thực hiện nghiêm chỉnh Pháp luật và các quy định khác có liên quan của pháp luật.
Điều 4. Cơ quan An ninh Nhà nước theo quy định của pháp luật xử lý các trường hợp phạm tội gây nguy hiểm cho an ninh Nhà nước, thực hiện chức năng, quyền hạn như cơ quan Công an.
Điều 5. Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp một cách độc lập theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kiểm sát độc lập theo quy định của pháp luật, không bị bất kỳ cơ quan hành chính, tổ chức, cá nhân nào can thiệp.
Điều 6. Trong tiến hành tố tụng hình sự, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân phải dựa vào quần chúng, căn cứ vào sự việc, lấy pháp luật làm tiêu chí. Luật áp dụng bình đẳng cho mọi công dân và không có đặc quyền nào được phép trước pháp luật.
Điều 7. Trong hoạt động tố tụng hình sự, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Công an nhân dân có trách nhiệm phân công, phối hợp, kiểm tra lẫn nhau để bảo đảm việc thi hành pháp luật đúng đắn, có hiệu quả.
Điều 8. Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật thực hiện quyền giám sát của pháp luật đối với hoạt động tố tụng hình sự.
Điều 9. Công dân thuộc mọi quốc tịch đều có quyền sử dụng ngôn ngữ nói và viết mẹ đẻ của mình trong quá trình tố tụng tại tòa án. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan công an cung cấp bản dịch cho người tham gia tố tụng không thông thạo tiếng nói, chữ viết thường dùng ở địa phương.
Trường hợp những người thuộc các dân tộc thiểu số sống trong một cộng đồng dân cư tập trung hoặc nhiều dân tộc cùng sinh sống trong một khu vực, thì phiên tòa sẽ được tiến hành bằng ngôn ngữ nói thường được sử dụng tại địa phương và các bản án, thông báo và các tài liệu khác sẽ được ban hành trong ngôn ngữ viết thường dùng ở địa phương.
Điều 10. Trong các vụ án xét xử, toà án nhân dân sẽ áp dụng hệ thống theo đó phiên sơ thẩm thứ hai là cuối cùng.
Điều 11. Các vụ án tại Tòa án nhân dân được xét xử công khai, trừ trường hợp Luật có quy định khác. Bị cáo có quyền bào chữa, Toà án nhân dân có trách nhiệm bảo đảm cho bị cáo được quyền bào chữa.
Điều 12. Không ai bị kết tội nếu không bị tòa án nhân dân xét xử theo pháp luật.
Điều 13. Trong việc xét xử, Toà án nhân dân áp dụng chế độ Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử theo quy định của pháp luật.
Điều 14. Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an bảo vệ quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác mà bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được hưởng.
Người tham gia tố tụng có quyền tố cáo Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên có hành vi xâm phạm quyền tố tụng của công dân hoặc khiến người của họ phải phẫn nộ.
Điều 15. Bị can, bị cáo tự nguyện nhận tội, thừa nhận sự việc phạm tội và sẵn sàng chấp nhận hình phạt có thể được khoan hồng theo quy định của pháp luật.
Điều 16. Trường hợp nào sau đây thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu điều tra đã được thực hiện, vụ án sẽ bị hủy bỏ hoặc không được khởi tố, hoặc việc xử lý sẽ bị chấm dứt, hoặc tuyên bố vô tội:
(1) nếu một hành vi rõ ràng là nhỏ, không gây tổn hại nghiêm trọng và do đó không bị coi là tội phạm;
(2) nếu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết;
(3) nếu được miễn hình phạt trong nghị định đặc xá;
(4) nếu tội phạm chỉ được xử lý khi có khiếu nại theo quy định của Luật Hình sự, nhưng không có khiếu nại hoặc đã rút đơn khiếu nại;
(5) nếu nghi phạm hoặc bị cáo đã chết; hoặc là
(6) nếu luật khác quy định việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 17 Các quy định của Luật sẽ được áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội mà phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp người nước ngoài có quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao phạm tội phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì giải quyết qua đường ngoại giao.
Điều 18. Phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ký kết hoặc tham gia hoặc theo nguyên tắc có đi có lại, các cơ quan tư pháp của Trung Quốc và các cơ quan tư pháp của nước ngoài có thể yêu cầu tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự.
Chương II Thẩm quyền
Điều 19. Cơ quan công an tiến hành điều tra vụ án hình sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Bất kỳ trường hợp nào về bỏ tù sai, tống tiền thú tội bằng tra tấn, khám xét bất hợp pháp hoặc bất kỳ tội nào khác do cán bộ tư pháp lợi dụng chức năng của mình xâm phạm quyền công dân và gây thiệt hại cho công lý tư pháp, đều bị viện kiểm sát nhân dân phát hiện. giám sát tư pháp đối với hoạt động tố tụng, có thể được viện kiểm sát nhân dân lập hồ sơ để điều tra. Bất kỳ trường hợp nào khác về tội nghiêm trọng do cán bộ cơ quan nhà nước thuộc thẩm quyền của cơ quan công an lợi dụng chức năng của mình mà cần có sự thụ lý trực tiếp của Viện kiểm sát nhân dân, đều có thể được đưa vào hồ sơ để điều tra. Viện kiểm sát nhân dân khi Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên quyết định.
Các trường hợp khởi tố riêng do Toà án nhân dân trực tiếp giải quyết.
Điều 20. Tòa án nhân dân sơ cấp có thẩm quyền như Tòa án cấp sơ thẩm đối với các vụ án hình sự thông thường; tuy nhiên, những vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp trên theo quy định của Pháp luật thì ngoại lệ.
Điều 21 Tòa án nhân dân trung cấp có thẩm quyền như Tòa án cấp sơ thẩm đối với những vụ án hình sự sau đây:
(1) các trường hợp gây nguy hiểm cho an ninh Nhà nước hoặc liên quan đến các hoạt động khủng bố; và
(2) các trường hợp phạm tội bị phạt tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 22 Toà án nhân dân cấp cao có thẩm quyền như toà án sơ thẩm đối với những vụ án hình sự lớn liên quan đến toàn tỉnh (hoặc khu tự trị, đô thị trực thuộc Trung ương).
Điều 23 Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự lớn liên quan đến cả nước.
Điều 24. Khi cần thiết, Toà án nhân dân cấp trên có thể xét xử những vụ án hình sự mà Toà án nhân dân cấp dưới có thẩm quyền xét xử như Toà án cấp sơ thẩm. Trường hợp Tòa án nhân dân cấp dưới xét thấy tình tiết vụ án hình sự sơ thẩm là lớn, phức tạp và cần Tòa án nhân dân cấp trên xét xử thì có quyền yêu cầu chuyển vụ án sang Tòa án nhân dân. ở cấp cao hơn tiếp theo để xét xử.
Điều 25. Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân nơi tội phạm. Nếu vụ án được xét xử bởi tòa án nhân dân nơi bị đơn cư trú thì tòa án đó có thẩm quyền xét xử vụ án.
Điều 26. Khi có hai hoặc nhiều Tòa án nhân dân cùng cấp có thẩm quyền xét xử một vụ án thì do Tòa án nhân dân đã thụ lý lần đầu xét xử. Khi cần thiết có thể chuyển vụ án ra xét xử tại toà án nhân dân nơi phạm tội chính.
Điều 27. Tòa án nhân dân cấp trên có thể hướng dẫn Tòa án nhân dân cấp dưới xét xử vụ án chưa rõ thẩm quyền và có thể hướng dẫn Tòa án nhân dân cấp dưới chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân cấp dưới xét xử.
Điều 28 Thẩm quyền đối với các vụ án tại Tòa án nhân dân đặc biệt được quy định riêng.
Chương III Rút tiền
Điều 29 Trong bất kỳ trường hợp nào sau đây, một thành viên của cơ quan tư pháp, viện kiểm sát hoặc điều tra sẽ tự nguyện rút lui, các bên của vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu họ rút lui:
(1) khi anh ta / cô ta là một bên hoặc họ hàng gần của một bên trong vụ việc;
(2) khi anh ta hoặc một người thân của anh ta có lợi ích trong vụ việc;
(3) nơi người đó đã từng là nhân chứng, người giám định, người bào chữa hoặc người đại diện tố tụng trong vụ án hiện tại; hoặc là
(4) khi họ có bất kỳ mối quan hệ nào khác với một bên của vụ án có thể ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án một cách công bằng.
Điều 30. Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên không được nhận lời mời ăn cơm, biếu của đương sự vụ án hoặc người được đương sự ủy thác và không được vi phạm quy định gặp đương sự vụ án hoặc người được đương sự ủy thác.
Bất kỳ thẩm phán, kiểm sát viên hoặc điều tra viên nào vi phạm các quy định tại khoản trên sẽ bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Các bên trong vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu họ rút lui.
Điều 31 Việc rút thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên do Chánh án Tòa án, Viện trưởng Kiểm sát, Thủ trưởng cơ quan công an quyết định; việc rút lui của Chánh án Tòa án do Ủy ban Tư pháp của Tòa án quyết định; việc rút Viện trưởng, Viện trưởng cơ quan công an do Viện kiểm sát viện kiểm sát nhân dân cấp tương ứng quyết định.
Điều tra viên không được đình chỉ điều tra vụ án trước khi có quyết định thu hồi.
Trường hợp đã có quyết định từ chối đơn xin rút thì bên đó hoặc người đại diện hợp pháp của bên đó có thể nộp đơn yêu cầu xem xét lại một lần.
Điều 32 Các quy định về việc rút đơn quy định trong Chương này sẽ được áp dụng như nhau đối với Thư ký Tòa án, người phiên dịch và người giám định.
Người bào chữa hoặc đại diện tố tụng của một vụ án có thể yêu cầu rút lại hoặc nộp đơn yêu cầu xem xét lại theo các quy định của Chương này.
Chương IV Bảo vệ và Đại diện
Điều 33 Ngoài việc thực hiện quyền tự bào chữa, bị can, bị cáo phạm tội có thể ủy thác cho một hoặc hai người làm người bào chữa cho mình. Những người sau đây có thể được ủy thác làm người bào chữa:
(1) luật sư;
(2) những người được giới thiệu bởi một tổ chức công cộng hoặc đơn vị mà nghi phạm tội phạm hoặc bị cáo trực thuộc; và
(3) người giám hộ hoặc người thân và bạn bè của nghi phạm tội phạm hoặc bị cáo.
Những người đang bị trừng phạt hình sự hoặc bị tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do cá nhân theo quy định của pháp luật sẽ không được coi là người bào chữa.
Người nào đã mãn nhiệm hoặc bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư, công chứng viên thì không được bào chữa, trừ trường hợp người đó là người giám hộ hoặc người thân thích của bị can, bị cáo phạm tội.
Điều 34 Nghi phạm tội phạm có quyền ủy thác cho người bào chữa sau khi bị cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu tiên hoặc kể từ ngày áp dụng biện pháp cưỡng chế, với điều kiện là trong quá trình điều tra, nghi phạm tội phạm chỉ được ủy thác luật sư với tư cách là người bào chữa cho anh ấy / cô ấy. Người bào chữa trong vụ án được ủy thác cho người bào chữa vào bất kỳ thời điểm nào.
Trong lần thẩm vấn đầu tiên đối với nghi phạm hình sự hoặc khi áp dụng các biện pháp bắt buộc, Cơ quan điều tra phải thông báo cho nghi can tội phạm về quyền ủy thác người bào chữa. Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được tài liệu của vụ án được chuyển đến để xem xét trước khi khởi tố, phải thông báo cho người bị tình nghi phạm tội về quyền ủy thác người bào chữa. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân phải thông báo cho bị cáo về quyền ủy thác người bào chữa của họ. Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội có yêu cầu ủy thác người bào chữa trong thời gian tạm giam thì Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có liên quan phải thông báo kịp thời.
Bị can, bị cáo đang bị tạm giam có thể nhờ người giám hộ hoặc người thân thích của họ để ủy thác cho người bào chữa thay cho họ.
Người bào chữa sau khi được nghi can, bị cáo phạm tội chấp nhận ủy thác phải thông báo kịp thời cho cơ quan thụ lý vụ án về việc ủy ​​thác.
Điều 35.Người bị tình nghi hoặc bị cáo không ủy thác được người bào chữa do khó khăn về tài chính hoặc các lý do khác thì bản thân bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ có thể nộp đơn đến cơ quan trợ giúp pháp lý, nơi có thể chỉ định luật sư. người bào chữa của mình trong trường hợp đơn đáp ứng đủ điều kiện thực hiện dịch vụ trợ giúp pháp lý.
Đối với nghi can hoặc bị cáo phạm tội bị khiếm thị, khiếm thính, khiếm thị hoặc người bị tâm thần chưa hoàn toàn mất hết khả năng nhận biết hoặc kiểm soát hành vi của mình, nếu người đó không ủy thác cho ai. là người bào chữa của mình thì Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có liên quan thông báo cho cơ quan trợ giúp pháp lý để chỉ định luật sư làm người bào chữa cho mình.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội bị phạt tù chung thân hoặc tử hình mà không ủy thác cho người bào chữa thì Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có liên quan thông báo cho cơ quan trợ giúp pháp lý để chỉ định luật sư làm người bào chữa cho họ. .
Điều 36 Cơ quan trợ giúp pháp lý có thể có luật sư trực tại các địa điểm như toà án nhân dân, trại tạm giam. Đối với bị can, bị cáo phạm tội mà không ủy quyền cho người bào chữa hoặc cơ quan trợ giúp pháp lý chỉ định luật sư bào chữa thì luật sư trực tiếp đó phải trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo phạm tội như tư vấn pháp luật, gợi ý lựa chọn thủ tục, áp dụng thay đổi biện pháp bắt buộc và đưa ra ý kiến ​​về việc xử lý trường hợp, v.v.
Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, nhà tạm giữ phải thông báo cho bị can, bị cáo về quyền gặp luật sư trực tiếp và tạo điều kiện cho việc chỉ định đó.
Điều 37 Trách nhiệm của người bào chữa phải trình bày, phù hợp với sự kiện và pháp luật, các tài liệu và ý kiến ​​chứng minh rằng nghi phạm hoặc bị cáo phạm tội vô tội hoặc tội phạm liên quan là một tội nhỏ, hoặc nghi phạm hoặc bị cáo tội phạm có đủ tư cách cần thiết. để được giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự để bảo vệ quyền tố tụng và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của bị can, bị cáo phạm tội.
Điều 38 Trong giai đoạn điều tra, luật sư bào chữa có thể trợ giúp pháp lý cho nghi phạm tội phạm, thay mặt nghi phạm nộp đơn khởi kiện, yêu cầu thay đổi biện pháp bắt buộc, từ Cơ quan điều tra tìm ra hành vi phạm tội mà nghi phạm phạm tội. bị kết án và thông tin liên quan đến vụ án, và đưa ra ý kiến ​​của mình.
Điều 39 Luật sư bào chữa có thể gặp gỡ và trao đổi thư từ với nghi phạm hoặc bị cáo đang bị tạm giam. Những người bào chữa khác, nếu được phép của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cũng có thể gặp gỡ, trao đổi với bị can, bị cáo phạm tội đang bị tạm giam.
Trường hợp luật sư bào chữa yêu cầu được gặp nghi can, bị cáo phạm tội đang bị tạm giam dựa trên chứng chỉ hành nghề luật sư, văn bản xác nhận và giấy ủy quyền của công ty luật hoặc văn bản trợ giúp pháp lý chính thức thì việc tạm giam Nhà liên quan có trách nhiệm sắp xếp cuộc họp một cách kịp thời, chậm nhất là 48 giờ sau khi nhận được yêu cầu.
Trong giai đoạn điều tra các tội phạm gây nguy hiểm đến an ninh Nhà nước, liên quan đến hoạt động khủng bố hoặc liên quan đến số tiền hối lộ đáng kể, luật sư bào chữa phải được sự đồng ý của cơ quan điều tra trước khi gặp nghi phạm. Cơ quan điều tra phải thông báo trước cho Trại tạm giam những thông tin liên quan đến các vụ án nói trên.
Luật sư bào chữa có quyền hỏi về vụ án và tư vấn pháp lý trong cuộc gặp với nghi phạm hoặc bị cáo đang bị tạm giam và có thể, kể từ ngày vụ án được chuyển đi thẩm tra trước khi khởi tố, xác minh bằng chứng liên quan với nghi can tội phạm. hoặc bị đơn. Cuộc họp giữa luật sư bào chữa và nghi can hoặc bị cáo phạm tội sẽ không được giám sát.
Đối với những trường hợp luật sư bào chữa gặp gỡ và trao đổi với nghi phạm hoặc bị cáo phạm tội đang bị giám sát tại khu dân cư thì áp dụng quy định tại các Khoản 1, 3 và 4 Điều này.
Điều 40 Luật sư bào chữa, kể từ ngày Viện kiểm sát nhân dân có liên quan bắt đầu xem xét vụ án để truy tố, hỏi ý kiến, trích lục và sao chép tài liệu hồ sơ vụ án. Những người bào chữa khác nếu được sự cho phép của viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân cũng có thể tham khảo, trích lục và sao chép các tài liệu nêu trên.
Điều 41 Trường hợp người bào chữa cho rằng cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân có liên quan không giao nộp một số chứng cứ đã thu thập được trong giai đoạn điều tra hoặc giai đoạn xem xét trước khi truy tố trong khi chứng cứ đó có thể chứng minh được bị can, bị cáo vô tội hoặc phạm tội. phạm tội nhỏ thì người bào chữa có quyền làm đơn với Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân có liên quan để lấy chứng cứ.
Điều 42 Trường hợp người bào chữa thu thập được bằng chứng cho thấy nghi phạm phạm tội liên quan không có mặt tại hiện trường vụ án, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc là người tâm thần mà pháp luật không quy định phải chịu trách nhiệm hình sự trách nhiệm thì người bào chữa phải thông báo kịp thời cho cơ quan nhà nước có liên quan và Viện kiểm sát nhân dân về chứng cứ đó.
Điều 43 Luật sư bào chữa, với sự đồng ý của người làm chứng hoặc các tổ chức, cá nhân khác có liên quan, từ họ thu thập thông tin liên quan đến vụ án hiện tại và cũng có thể nộp đơn cho viện kiểm sát nhân dân hoặc tòa án nhân dân để thu thập, lấy chứng cứ, hoặc yêu cầu tòa án nhân dân thông báo cho người làm chứng có mặt tại tòa và ghi lời khai.
Được sự cho phép của viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân và được sự đồng ý của người bị hại, người thân thích của họ hoặc người làm chứng do người bị hại cung cấp, luật sư bào chữa có thể thu thập thông tin liên quan đến vụ án hiện tại từ họ.
Điều 44 Không luật sư bào chữa hoặc bất kỳ người nào khác có thể giúp nghi phạm hoặc bị cáo che giấu, tiêu hủy hoặc ngụy tạo bằng chứng hoặc thông đồng với nghi can hoặc bị cáo tội phạm để kiểm kê lời thú tội, hoặc đe dọa hoặc xúi giục nhân chứng đưa ra lời khai sai hoặc thực hiện các hành vi khác can thiệp quá trình tố tụng của các cơ quan tư pháp.
Mọi vi phạm khoản trên sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Mọi cáo buộc phạm tội do người bào chữa thực hiện trong vấn đề này sẽ do cơ quan điều tra xử lý chứ không phải cơ quan điều tra thụ lý vụ án do người bào chữa đảm nhận. Trường hợp người bào chữa là luật sư thì công ty luật mà người bào chữa đang làm việc hoặc hiệp hội luật sư mà người bào chữa là thành viên sẽ được thông báo kịp thời về các thông tin liên quan.
Điều 45 Khi xét xử, bị cáo có thể từ chối để người bào chữa của mình tiếp tục bào chữa và có thể giao quyền bào chữa của mình cho người bào chữa khác.
Điều 46 Người bị hại trong vụ án bị khởi tố, người đại diện hợp pháp hoặc người thân thích của họ, một bên trong vụ kiện dân sự ngẫu nhiên và người đại diện hợp pháp của họ, kể từ ngày vụ án được chuyển đi thẩm tra trước khi khởi tố, có quyền ủy thác cho người đại diện tố tụng. Một công tố viên riêng trong vụ án truy tố riêng và những người đại diện hợp pháp của họ, và một bên trong một vụ kiện dân sự ngẫu nhiên và những người đại diện hợp pháp của họ sẽ có quyền ủy thác cho một người đại diện tố tụng bất cứ lúc nào.
Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án được chuyển đi thẩm tra trước khi khởi tố phải thông báo cho người bị hại và người đại diện hợp pháp hoặc người thân thích của họ và đương sự khởi kiện vụ án dân sự và hợp pháp của họ. đại diện mà họ có quyền ủy thác đại diện tố tụng. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án khởi tố, Toà án nhân dân phải thông báo cho Kiểm sát viên riêng và người đại diện hợp pháp của họ, đương sự khởi kiện vụ án dân sự và người đại diện hợp pháp của họ mà họ có quyền uỷ thác. một đại diện tố tụng.
Điều 47 Đối với việc ủy ​​thác đại diện tố tụng, các quy định tại Điều 33 của Luật sẽ được áp dụng với những sửa đổi phù hợp.
Điều 48 Luật sư bào chữa được quyền giữ bí mật thông tin về thân chủ mà họ biết trong quá trình hành nghề, với điều kiện họ phải thông báo kịp thời cho các cơ quan tư pháp về những thông tin mà họ biết được trong quá trình hành nghề, chỉ ra rằng họ khách hàng hoặc người khác đang thực hiện hoặc đang phạm tội gây nguy hiểm cho an ninh Nhà nước, an ninh công cộng hoặc tội đe dọa nghiêm trọng đến an toàn cá nhân của người khác.
Điều 49 Người bào chữa hoặc người đại diện tố tụng có quyền làm đơn yêu cầu viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc cấp trên tiếp theo nếu được cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân, cơ quan công an có liên quan. các nhân viên của nó đã cản trở họ thực hiện hợp pháp các quyền tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân kịp thời xem xét đơn yêu cầu, tố cáo và thông báo cho các cơ quan hữu quan biết để sửa chữa nếu xác nhận được tính xác thực của kiến ​​nghị, tố cáo.
Chương V bằng chứng
Điều 50 Tất cả các tài liệu chứng minh sự thật của một vụ án sẽ là bằng chứng.
Bằng chứng sẽ bao gồm:
(1) bằng chứng vật chất;
(2) bằng chứng tài liệu;
(3) lời khai của các nhân chứng;
(4) lời khai của nạn nhân;
(5) lời khai và lời khai của nghi phạm hoặc bị cáo;
(6) ý kiến ​​chuyên gia;
(7) hồ sơ khám nghiệm hiện trường vụ án, khám nghiệm, xác định danh tính và thực nghiệm điều tra; và
(8) tài liệu nghe nhìn và dữ liệu điện tử.
Tính xác thực của chứng cứ phải được xác nhận trước khi nó có thể được thừa nhận làm cơ sở để đưa ra quyết định về bản án.
Điều 51 Đối với trường hợp truy tố công khai, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm chứng minh bị cáo có tội, còn đối với trường hợp truy tố riêng thì Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm chứng minh bị cáo có tội.
Điều 52. Nghiêm cấm họ tống tiền thú tội bằng cách tra tấn, thu thập bằng chứng thông qua đe dọa, dụ dỗ, lừa dối hoặc các phương tiện trái pháp luật khác hoặc buộc bất kỳ ai cung cấp bằng chứng chứng minh tội lỗi của mình. Họ phải đảm bảo rằng tất cả những công dân có liên quan đến một vụ án hoặc những người có thông tin về các tình huống của một vụ án có thể cung cấp tất cả các bằng chứng sẵn có một cách khách quan và, trừ những trường hợp đặc biệt, có thể yêu cầu những công dân đó hỗ trợ điều tra.
Điều 53 Việc cơ quan công an đề nghị phê chuẩn việc bắt, đề nghị truy tố của Viện kiểm sát nhân dân và bản án của Tòa án nhân dân phải trung thực với sự thật. Người nào cố tình che giấu sự thật sẽ bị truy cứu trách nhiệm.
Điều 54 Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan công an có thẩm quyền thu thập, lấy chứng cứ của tổ chức, cá nhân có liên quan. Các tổ chức và cá nhân có liên quan phải cung cấp bằng chứng trung thực.
Chứng cứ vật chất, tài liệu, tài liệu nghe nhìn, dữ liệu điện tử và các chứng cứ khác do cơ quan hành chính thu thập được trong quá trình thực thi pháp luật hành chính và điều tra, xử lý vụ án có thể được sử dụng làm chứng cứ trong vụ án hình sự.
Bằng chứng liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật thương mại hoặc quyền riêng tư cá nhân sẽ được giữ bí mật.
Bất cứ ai làm sai lệch, che giấu hoặc tiêu hủy chứng cứ, bất kể người đó thuộc bên nào của vụ án, đều phải bị điều tra trước pháp luật.
Điều 55 Tất cả các trường hợp sẽ được xét xử theo các nguyên tắc nhấn mạnh vào bằng chứng, điều tra và nghiên cứu, trong khi sự tin cậy sẽ không dễ dàng được đưa ra đối với các tuyên bố miệng. Bị cáo không thể bị kết tội và bị kết án hình sự nếu không có bằng chứng nào khác ngoài lời khai của mình. Mặt khác, bị cáo có thể bị tuyên có tội và bị kết án hình sự ngay cả khi không có lời khai của mình, miễn là có bằng chứng cụ thể và đầy đủ.
Bằng chứng phải được coi là đầy đủ và cụ thể nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
(1) có bằng chứng cho mỗi tình tiết làm cơ sở cho việc kết tội và tuyên án;
(2) tính xác thực của bằng chứng được sử dụng để quyết định vụ việc đã được xác nhận theo các thủ tục luật định; và
(3) dựa trên đánh giá toàn diện của tất cả các bằng chứng cho vụ án, các tình tiết xác định đã được chứng minh vượt quá sự nghi ngờ hợp lý.
Điều 56 Những lời thú tội bị nghi phạm hoặc bị cáo tống tiền bằng các biện pháp bất hợp pháp như tra tấn, lời khai của nhân chứng và lời khai của nạn nhân được thu thập bằng các biện pháp bạo lực, đe dọa hoặc các phương tiện bất hợp pháp khác sẽ bị loại trừ. Bằng chứng vật chất hoặc bằng chứng tài liệu không được thu thập theo thủ tục luật định và do đó có khả năng gây thiệt hại nghiêm trọng đến công lý tư pháp sẽ phải được sửa chữa hoặc giải thích hợp lý, và sẽ bị loại trừ nếu việc sửa chữa hoặc giải thích hợp lý không được thực hiện.
Các chứng cứ bị loại trừ khi phát hiện trong quá trình điều tra, xem xét trước khi truy tố, xét xử sẽ bị loại trừ theo quy định của pháp luật và không làm cơ sở để đưa ra quan điểm truy tố, quyết định truy tố và bản án.
Điều 57 Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân nhận được tin báo, tố giác, tin báo về những trường hợp Điều tra viên thu thập chứng cứ trái pháp luật hoặc phát hiện Điều tra viên có hành vi đó thì Viện kiểm sát nhân dân tiến hành điều tra, xác minh. Nếu phạm tội thì những người có liên quan phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Điều 58 Trong phiên tòa, khi thẩm phán cho rằng bằng chứng có thể đã được thu thập bằng các phương tiện bất hợp pháp như quy định tại Điều 56 của Hợp đồng này, thì một cuộc điều tra của tòa án sẽ được tiến hành về tính hợp pháp của phương tiện thu thập bằng chứng.
Đương sự, người bào chữa của họ và người đại diện tố tụng có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân có liên quan loại trừ chứng cứ được thu thập bằng các biện pháp trái pháp luật theo quy định của pháp luật. Những người nộp đơn xin loại trừ bằng chứng thu thập được bằng các phương tiện bất hợp pháp phải cung cấp manh mối hoặc tài liệu liên quan.
Điều 59 Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm chứng minh tính hợp pháp của các phương tiện thu thập chứng cứ trong quá trình điều tra của Tòa án.
Trường hợp không có chứng cứ chứng minh tính hợp pháp của phương tiện thu thập chứng cứ thì Viện kiểm sát nhân dân có thể yêu cầu Tòa án nhân dân có liên quan thông báo cho Điều tra viên có liên quan hoặc những người khác có mặt trước phòng xử án để giải trình. Tòa án nhân dân có quyền quyết định thông báo cho các điều tra viên có liên quan hoặc những người khác có mặt trước phòng xử án để giải thích. Các điều tra viên liên quan hoặc các nhân viên khác cũng có thể chủ động yêu cầu xuất hiện trước phòng xử án để được giải thích. Những người có liên quan cũng phải có mặt trước phòng xử án nếu được toà án nhân dân thông báo.
Điều 60 Chứng cứ sẽ bị loại trừ nếu cuộc điều tra của tòa án đã xác nhận hoặc không thể loại trừ rằng đã có những trường hợp thu thập chứng cứ bằng các phương tiện bất hợp pháp như được quy định tại Điều 56 của văn bản này.
Điều 61 Lời khai của nhân chứng chỉ được thừa nhận là cơ sở để đưa ra quyết định về bản án sau khi nhân chứng đó đã được hai bên thẩm vấn và kiểm tra chéo trong phòng xử án, tức là cả công tố viên và người bị hại với tư cách là bị cáo và người bào chữa. Nếu qua điều tra, Tòa án phát hiện người làm chứng cố tình đưa ra lời khai gian dối hoặc che giấu chứng cứ phạm tội thì Tòa án sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 62 Tất cả những người có thông tin về một vụ án phải có nghĩa vụ làm chứng.
Những người hoặc người chưa thành niên khuyết tật về thể chất hoặc tâm thần không phân biệt được đúng sai hoặc không thể thể hiện đúng cách sẽ không đủ tư cách làm nhân chứng.
Điều 63 Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an bảo đảm an toàn cho người làm chứng và người thân thích của họ.
Người nào đe dọa, làm nhục, đánh đập, trả thù người làm chứng hoặc người thân thích của người đó, nếu hành vi của người đó cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; trường hợp chưa đến mức xử lý hình sự thì xử lý về tội xâm phạm công an theo quy định của pháp luật.
Điều 64 Đối với những tội phạm gây nguy hiểm cho an ninh Nhà nước, những tội liên quan đến hoạt động khủng bố, tội phạm có tổ chức của các nhóm có tính chất tập hợp tội phạm, tội phạm liên quan đến ma túy và những thứ tương tự, nếu sự an toàn cá nhân của nhân chứng, chuyên gia hoặc nạn nhân hoặc người thân của họ bị đe doạ do lời khai trong vụ kiện, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Công an có một hoặc nhiều biện pháp bảo vệ sau đây:
(1) giữ bí mật tên thật, địa chỉ, người sử dụng lao động và thông tin cá nhân khác của những người nói trên;
(2) áp dụng các biện pháp để tránh sự xuất hiện thực sự hoặc giọng nói thật của những người có mặt trong phòng xử án để lấy lời khai;
(3) cấm một số người tiếp xúc với nhân chứng, chuyên gia, nạn nhân và người thân của họ;
(4) áp dụng các biện pháp đặc biệt để bảo vệ an ninh cá nhân và dân cư của những người nói trên; và / hoặc
(5) các biện pháp bảo vệ cần thiết khác.
Người làm chứng, người giám định hoặc người bị hại cho rằng an ninh cá nhân của mình hoặc người thân của họ bị nguy hiểm do lời khai của họ trong vụ kiện có thể yêu cầu Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an.
Các tổ chức, cá nhân có liên quan hợp tác khi Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Công an có biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Điều 65 Người làm chứng có quyền được trợ cấp cho việc thực hiện nghĩa vụ đưa ra lời khai về các chi phí đi lại, ăn ở và ăn uống phát sinh do đó. Khoản phụ cấp cho nhân chứng đưa ra lời khai được tính vào chi phí kinh doanh của các cơ quan tư pháp và được bảo đảm bằng tài chính công của chính quyền nhân dân cùng cấp.
Trường hợp người làm chứng là nhân viên của một tổ chức, thì tổ chức đó không được khấu trừ tiền lương, tiền thưởng và các lợi ích khác của họ một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức trá hình.
Chương VI Các biện pháp bắt buộc
Điều 66.Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an tùy theo tình tiết của vụ án có thể ra lệnh bắt nghi can, bị cáo phạm tội, ra lệnh cho tại ngoại chờ xét xử hoặc tống đạt. / cô ấy để giám sát khu dân cư.
Điều 67 Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có thể cho bị can, bị cáo phạm tội có một trong các điều kiện sau đây được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử:
(1) nghi phạm hoặc bị cáo phạm tội bị trừng phạt bằng hình thức giám sát công khai, tạm giữ hình sự hoặc các hình phạt bổ sung được đáp ứng riêng;
(2) nghi phạm hoặc bị cáo phạm tội bị phạt tù có thời hạn hoặc các hình phạt nặng hơn, nhưng sẽ không gây nguy hiểm cho xã hội nếu họ được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử;
(3) khi nghi phạm hoặc bị cáo mắc bệnh hiểm nghèo không thể tự chăm sóc bản thân hoặc là phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú, do đó sẽ không gây nguy hiểm cho xã hội nếu họ được tại ngoại chờ xét xử; hoặc là
(4) thời hạn tạm giam của nghi phạm hoặc bị cáo đã hết nhưng vụ án vẫn chưa được kết luận, và do đó nghi can hoặc bị cáo cần được tại ngoại trong khi chờ xét xử.
Việc tại ngoại chờ xét xử sẽ do cơ quan công an thực hiện.
Điều 68 Trong trường hợp Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan công an quyết định cho bị can, bị cáo được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử thì ra lệnh cho bị can, bị cáo bảo lãnh hoặc nộp tiền bảo lãnh.
Điều 69 Người bảo lãnh phải là người đáp ứng các điều kiện sau:
(1) không tham gia vào trường hợp hiện tại;
(2) để có thể thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh;
(3) được hưởng các quyền chính trị và không bị hạn chế quyền tự do cá nhân; và
(4) có chỗ ở cố định và thu nhập ổn định.
Điều 70 Người bảo lãnh phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
(1) để đảm bảo rằng người được bảo lãnh của mình tuân thủ các quy định tại Điều 71 của Hợp đồng này; và
(2) Báo cáo kịp thời cho cơ quan thi hành án trong trường hợp phát hiện người được mình bảo lãnh có hành vi hoặc đã có hành vi vi phạm Điều 71 của Nghị định này.
Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện các nghĩa vụ nêu trên khi người được bảo lãnh có hành vi vi phạm quy định tại Điều 71 của Luật này thì bị phạt tiền; và người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nếu hành vi của mình là cấu thành tội phạm.
Điều 71 Người bị can, bị cáo phạm tội được tại ngoại chờ xét xử phải tuân theo các quy định sau đây:
(1) không được rời khỏi thành phố hoặc quận nơi người đó cư trú mà không có sự cho phép của cơ quan thi hành án;
(2) báo cáo bất kỳ sự thay đổi nào về địa chỉ, người sử dụng lao động và thông tin liên lạc cho cơ quan điều hành trong vòng 24 giờ sau khi thay đổi;
(3) có mặt trước tòa một cách kịp thời khi được triệu tập;
(4) không can thiệp, dưới bất kỳ hình thức nào, với các nhân chứng đưa ra lời khai; và
(5) không được tiêu hủy hoặc làm sai lệch chứng cứ hoặc thông đồng với người khác để kiểm đếm lời thú tội.
Tùy theo tình tiết của vụ án mà Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan công an có thể ra lệnh cho bị can, bị cáo được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử phải chấp hành một hoặc một số quy định sau đây:
(1) không được vào những nơi nhất định;
(2) không gặp gỡ hoặc trao đổi thư từ với một số người nhất định;
(3) không tham gia vào các hoạt động nhất định; và / hoặc
(4) giao nộp hộ chiếu và các giấy tờ thông hành khác, và bằng lái xe cho cơ quan thi hành án để bảo quản an toàn.
Trong trường hợp một nghi can hoặc bị cáo phạm tội đã được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử vi phạm các quy định của hai khoản trên, một phần hoặc toàn bộ số tiền bảo lãnh đã nộp sẽ bị tước bỏ, và tùy trường hợp cụ thể, nghi can hoặc bị cáo phạm tội sẽ được lệnh ghi ghi nhận sự ăn năn hối cải, nộp tiền bảo lãnh một lần nữa hoặc cung cấp một người bảo lãnh, hoặc bị quản thúc tại khu dân cư hoặc bị bắt giữ.
Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm các quy định về việc được tại ngoại chờ xét xử, họ có thể bị tạm giữ trước khi bị bắt theo các quy định có liên quan.
Điều 72 Cơ quan quyết định cho tại ngoại khi chờ xét xử sẽ quyết định số tiền tại ngoại sau khi cân nhắc đầy đủ về nhu cầu bảo đảm hoạt động tố tụng bình thường, mức độ nguy hiểm cho xã hội của người được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử, Bản chất và hoàn cảnh của vụ án, mức độ nghiêm trọng của hình phạt có thể xảy ra, điều kiện tài chính của người được tại ngoại khi chờ xét xử, và các yếu tố khác.
Người bảo lãnh phải nộp tiền vào tài khoản đặc biệt tại ngân hàng do cơ quan thi hành án chỉ định.
Điều 73 Trong trường hợp nghi can hoặc bị cáo phạm tội không vi phạm bất kỳ quy định nào tại Điều 71 của Nghị định này trong thời gian được tại ngoại, người đó sẽ nhận tiền thế chân đã trả lại từ ngân hàng liên quan khi hết thời hạn tại ngoại bằng cách xuất trình thông báo về việc chấm dứt việc tại ngoại trong thời gian chờ xét xử hoặc các công cụ pháp lý khác có liên quan.
Điều 74 Toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có thể giám sát khu dân cư đối với nghi can, bị cáo phạm tội có đủ điều kiện bắt và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(1) anh ấy / cô ấy bị ốm nặng và không thể tự chăm sóc bản thân được;
(2) cô ấy đang trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú;
(3) anh ấy / cô ấy là người duy nhất hỗ trợ một người không thể chăm sóc anh ấy / cô ấy;
(4) giám sát khu dân cư là thích hợp hơn khi xem xét các tình huống đặc biệt của vụ việc hoặc nhu cầu xử lý vụ việc; hoặc là
(5) trường hợp của anh ấy / cô ấy vẫn chưa được kết luận khi hết thời hạn tạm giam, và do đó cần phải giám sát khu dân cư.
Trong trường hợp nghi can hoặc bị cáo phạm tội đáp ứng các điều kiện để được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử, nhưng không thể cung cấp người bảo lãnh hoặc trả tiền bảo lãnh, họ có thể bị giám sát tại khu dân cư.
Việc giám sát khu dân cư sẽ do các cơ quan an ninh công cộng thực hiện.
Điều 75 Việc giám sát khu dân cư sẽ được thực thi tại nơi ở của nghi can hoặc bị cáo phạm tội hoặc tại một nơi cư trú được chỉ định nếu người đó không có nơi ở cố định. Trong trường hợp, đối với tội phạm bị nghi ngờ gây nguy hiểm cho an ninh Nhà nước, tội phạm liên quan đến hoạt động khủng bố và tội phạm liên quan đến số tiền hối lộ đáng kể, nếu việc giám sát dân cư tại nơi ở của nghi phạm hoặc bị cáo có thể cản trở việc điều tra, thì việc giám sát dân cư có thể, khi được sự chấp thuận của Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an cấp trên trực tiếp thi hành tại nơi cư trú được chỉ định, với điều kiện không thi hành án giám sát dân cư tại trại tạm giam, địa điểm đặc biệt để điều tra vụ án.
Khi một nghi phạm hoặc bị cáo được giám sát dân cư tại một nơi cư trú được chỉ định, gia đình của họ sẽ được thông báo về thông tin liên quan đến nơi đó trong vòng 24 giờ sau khi thực thi giám sát dân cư, trừ khi không thể xử lý thông báo.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội được giám sát khu dân cư ủy thác cho người bào chữa thì áp dụng Điều 34 của Luật.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với tính hợp pháp của quyết định và việc thực thi giám sát dân cư tại nơi cư trú được chỉ định.
Điều 76 Thời gian giám sát dân cư tại nơi cư trú được chỉ định sẽ được trừ vào thời hạn hình phạt. Đối với tội phạm bị kết án giám sát công khai, mỗi ngày giám sát khu dân cư được tính là một ngày của thời hạn chấp hành hình phạt; đối với tội phạm bị tạm giữ hình sự hoặc phạt tù có thời hạn, hai ngày giám sát tại khu dân cư được tính là một ngày của thời hạn chấp hành hình phạt.
Điều 77 Một bị can hoặc bị cáo phạm tội bị giám sát khu dân cư phải tuân theo các quy định sau đây:
(1) không được rời khỏi nơi ở hoặc nơi ở đang bị giám sát dân cư mà không được phép của cơ quan thi hành án;
(2) không được gặp gỡ hoặc trao đổi thư từ với bất kỳ ai mà không có sự cho phép của cơ quan thi hành án;
(3) có mặt trước tòa một cách kịp thời khi được triệu tập;
(4) không can thiệp, dưới bất kỳ hình thức nào, với lời khai của nhân chứng;
(5) không được tiêu hủy hoặc làm sai lệch chứng cứ hoặc thông đồng với người khác để kiểm đếm lời thú tội; và
(6) giao nộp hộ chiếu và các giấy tờ đi lại khác, giấy chứng nhận nhân thân và bằng lái xe cho cơ quan thi hành án để bảo quản.
Một nghi phạm hoặc bị cáo bị giám sát khu dân cư có thể bị bắt nếu anh ta / cô ta vi phạm nghiêm trọng đoạn trên, và có thể bị tạm giữ trước khi bắt nếu cần bắt giữ.
Điều 78 Cơ quan thi hành án có thể theo dõi một nghi phạm hình sự hoặc bị cáo bị giám sát liên quan đến việc họ tuân thủ các quy định về giám sát khu dân cư bằng các biện pháp giám sát điện tử, kiểm tra đột xuất, v.v. giám sát khu dân cư có thể được giám sát.
Điều 79 Thời hạn Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an nhân dân cho bị can, bị cáo được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử không quá 12 tháng; thời gian giám sát khu dân cư không quá sáu tháng.
Trong thời gian bị can, bị cáo phạm tội được tại ngoại chờ xét xử hoặc đang bị theo dõi tại khu dân cư thì việc điều tra, truy tố, xử lý vụ án không được đình chỉ. Nếu phát hiện bị can, bị cáo không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hạn tại ngoại chờ xét xử, hết thời hạn giám sát tại khu dân cư thì thời hạn đó được chấm dứt ngay. Người được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử hoặc người đang bị giám sát tại khu dân cư và các thực thể liên quan sẽ được thông báo về việc chấm dứt hợp đồng một cách kịp thời.
Điều 80 Việc bắt bị can, bị cáo phạm tội phải được Viện kiểm sát nhân dân phê chuẩn hoặc Toà án nhân dân quyết định và do cơ quan Công an thực hiện.
Điều 81 Trường hợp có bằng chứng chứng minh cho các tình tiết của tội phạm và nghi phạm hoặc bị cáo phạm tội bị phạt tù có thời hạn hoặc hình phạt nặng hơn, và trường hợp đó sẽ không ngăn chặn có hiệu quả những nguy hiểm sau đây cho xã hội do đương sự gây ra bị can, bị cáo phạm tội nếu được tại ngoại chờ xét xử thì bị can, bị cáo phạm tội bị bắt theo quy định của pháp luật:
(1) nghi phạm hoặc bị cáo có thể phạm tội mới;
(2) Có nguy cơ thực sự là nghi phạm hoặc bị cáo có thể gây nguy hiểm cho an ninh Nhà nước, an ninh công cộng hoặc trật tự công cộng;
(3) nghi can hoặc bị cáo phạm tội có thể tiêu hủy hoặc làm sai lệch chứng cứ, can thiệp vào các nhân chứng đưa ra lời khai hoặc thông đồng với những người khác để kiểm đếm lời thú tội;
(4) nghi phạm hoặc bị cáo có thể trả thù các nạn nhân, người cung cấp thông tin hoặc người tố cáo; hoặc là
(5) nghi phạm hoặc bị cáo cố gắng tự sát hoặc bỏ trốn.
Đối với việc phê chuẩn hoặc quyết định bắt giữ, bản chất và hoàn cảnh phạm tội của một nghi can hoặc bị cáo phạm tội, lời nhận tội và sự chấp nhận hình phạt của bị can hoặc bị cáo phạm tội, v.v. phải được xem xét xem liệu có thể gây nguy hiểm cho xã hội hay không. xảy ra.
Nếu có bằng chứng chứng minh cho các tình tiết của tội phạm và bị can hoặc nghi phạm phạm tội bị phạt tù có thời hạn mười năm hoặc các hình phạt nặng hơn, hoặc có bằng chứng chứng minh cho các tình tiết của tội phạm, và nghi phạm hoặc bị cáo đã phạm tội mà bị phạt tù có thời hạn hoặc các hình phạt nặng hơn, nhưng đã cố ý phạm tội từ trước hoặc không rõ danh tính, thì nghi phạm hoặc bị cáo sẽ bị bắt.
Một nghi phạm hoặc bị cáo được tại ngoại chờ xét xử hoặc bị quản thúc tại khu dân cư có thể bị bắt nếu vi phạm nghiêm trọng các quy định liên quan đến việc được tại ngoại trong khi chờ xét xử hoặc giám sát dân cư.
Điều 82 Ban đầu, cơ quan công an có thể tạm giữ một người bị bắt quả tang hoặc một nghi phạm chính trong bất kỳ điều kiện nào sau đây:
(1) nếu người đó đang chuẩn bị phạm tội, đang trong quá trình phạm tội hoặc bị phát hiện ngay sau khi phạm tội;
(2) nếu người đó bị nạn nhân hoặc nhân chứng xác định là đã phạm tội;
(3) nếu bằng chứng phạm tội được tìm thấy trên cơ thể người đó hoặc tại nơi cư trú của người đó;
(4) nếu anh ta / cô ta cố gắng tự tử hoặc bỏ trốn sau khi phạm tội, hoặc anh ta / cô ta là một kẻ chạy trốn;
(5) nếu có khả năng anh ta / cô ta tiêu hủy hoặc làm sai lệch bằng chứng hoặc kiểm đếm lời thú tội;
(6) nếu người đó không cho biết tên và địa chỉ thật của mình và không rõ danh tính của người đó; và
(7) nếu anh ta / cô ta bị nghi ngờ phạm tội từ nơi này sang nơi khác, nhiều lần, hoặc theo băng nhóm.
Điều 83 Khi cơ quan công an tạm giữ, bắt người ở nơi khác thì thông báo cho cơ quan công an nơi người bị tạm giữ, người bị bắt lưu trú và cơ quan công an nơi đó phối hợp xử lý.
Điều 84 Những người có tên dưới đây có thể bị công dân bắt giữ ngay và giao cho cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân để xử lý:
(1) bất kỳ người nào đang phạm tội hoặc bị phát hiện ngay sau khi phạm tội;
(2) bất kỳ người nào đang bị truy nã;
(3) bất kỳ người nào đã vượt ngục; và
(4) bất kỳ người nào đang bị truy đuổi để bắt giữ.
Điều 85 Khi tạm giữ người, cơ quan công an phải xuất trình lệnh tạm giam.
Sau khi bị tạm giữ, người bị tạm giữ phải được chuyển ngay đến trại tạm giam để tạm giam trong thời hạn 24 giờ. Gia đình của người bị tạm giữ phải được thông báo về việc giam giữ trong vòng 24 giờ sau khi tạm giữ, trừ trường hợp không xử lý được thông báo hoặc người bị tạm giữ có liên quan đến các tội gây nguy hiểm đến an ninh Nhà nước hoặc tội hoạt động khủng bố và việc thông báo đó có thể cản trở việc điều tra. Gia đình của người bị giam giữ sẽ được thông báo về các thông tin liên quan ngay sau khi các tình huống cản trở việc điều tra được loại bỏ.
Điều 86 Cơ quan công an có trách nhiệm thẩm vấn người bị tạm giữ trong vòng 24 giờ sau khi bị tạm giữ. Khi phát hiện ra việc không tạm giữ, cơ quan công an phải trả tự do ngay cho người đó và cấp giấy chứng nhận trả tự do.
Điều 87 Cơ quan công an khi có nhu cầu truy bắt nghi can thì có văn bản đề nghị phê chuẩn việc bắt kèm theo hồ sơ vụ án, chứng cứ gửi Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét, phê chuẩn. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có thể cử Kiểm sát viên tham gia thảo luận của cơ quan Công an về vụ án lớn.
Điều 88 Viện kiểm sát nhân dân có thể thẩm vấn nghi can tội phạm khi xem xét, phê chuẩn việc bắt giữ và thẩm vấn nghi can tội phạm trong một số trường hợp sau đây:
(1) khi có nghi ngờ về việc liệu nghi phạm tội phạm có đáp ứng các điều kiện bắt giữ hay không;
(2) khi nghi phạm tội phạm xin khai báo trước nhân viên viện kiểm sát; hoặc là
(3) nơi các hoạt động điều tra có thể có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Trong quá trình xem xét, phê chuẩn việc bắt, Viện kiểm sát nhân dân có thể hỏi người làm chứng, người tham gia tố tụng khác và nghe ý kiến ​​của luật sư bào chữa; nếu luật sư bào chữa yêu cầu trình bày ý kiến ​​thì phải nghe ý kiến ​​của luật sư bào chữa.
Điều 89 Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định việc Viện kiểm sát nhân dân thẩm tra, phê chuẩn việc bắt bị can. Những vụ án lớn trình ủy ban kiểm sát thảo luận và quyết định.
Điều 90 Sau khi Viện kiểm sát nhân dân xem xét vụ án mà cơ quan công an có đơn đề nghị phê chuẩn bắt thì tùy theo tình tiết của vụ án mà quyết định phê chuẩn hoặc không chấp thuận bắt. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân quyết định phê chuẩn việc bắt thì cơ quan công an phải thi hành kịp thời và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân biết. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân không chấp thuận việc bắt thì phải nêu rõ lý do; nếu xét thấy cần điều tra bổ sung thì đồng thời thông báo cho cơ quan công an về việc cần thiết.
Điều 91 Trường hợp xét thấy cần phải bắt người bị tạm giam thì cơ quan công an trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày tạm giam phải trình Viện kiểm sát nhân dân xem xét, phê chuẩn. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn trình đề nghị thẩm tra và phê duyệt có thể kéo dài thêm từ một đến bốn ngày.
Đối với việc bắt giữ một nghi phạm chính có liên quan đến các tội phạm từ nơi này đến nơi khác, nhiều lần hoặc theo băng nhóm, thời hạn gửi yêu cầu thẩm tra và phê chuẩn có thể kéo dài đến 30 ngày.
Viện kiểm sát nhân dân quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc bắt giữ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị phê chuẩn việc bắt giữ của cơ quan Công an. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân không chấp thuận việc bắt thì cơ quan công an khi nhận được tin báo phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ và thông báo ngay cho Viện kiểm sát nhân dân biết kết quả. Trong trường hợp cần điều tra thêm và nếu người được trả tự do có đủ điều kiện được tại ngoại chờ xét xử hoặc giám sát tại khu dân cư thì được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử hoặc giám sát tại khu dân cư theo quy định của pháp luật.
Điều 92 Nếu xét thấy quyết định không bắt giữ của Viện kiểm sát nhân dân là không chính xác thì có quyền yêu cầu xem xét lại nhưng phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Nếu ý kiến ​​của cơ quan công an không được chấp nhận thì có quyền yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp trên xem xét lại. Viện kiểm sát nhân dân cấp trên xem xét ngay sự việc, quyết định thay đổi hay không và thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới, cơ quan công an biết để thi hành quyết định.
Điều 93 Khi bắt, cơ quan công an phải xuất trình lệnh bắt.
Khi bắt, người bị bắt phải được chuyển ngay đến Trại tạm giam để tạm giữ. Gia đình của người bị bắt sẽ được thông báo trong vòng 24 giờ sau khi bắt giữ, trừ khi không thể xử lý thông báo.
Điều 94 Việc hỏi cung phải được tiến hành trong vòng 24 giờ sau khi bắt, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân đối với người đã ra quyết định bắt, cơ quan công an đối với người bị bắt khi được sự đồng ý của cơ quan công an. viện kiểm sát nhân dân. Nếu xét thấy người đó đáng lẽ không bị bắt thì phải trả tự do ngay và cấp giấy chứng nhận trả tự do.
Điều 95 Sau khi bị can, bị cáo phạm tội bị bắt, Viện kiểm sát nhân dân có liên quan vẫn xem xét sự cần thiết phải tạm giam. Trường hợp bị can, bị cáo không còn cần phải tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân đề nghị trả tự do hoặc thay đổi biện pháp bắt buộc. Các cơ quan có liên quan phải thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân về việc thụ lý vụ án trong thời hạn mười ngày.
Điều 96 Nếu Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan công an xét thấy biện pháp bắt buộc đối với bị can, bị cáo phạm tội là không phù hợp thì phải hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung ngay lập tức. Trường hợp cơ quan công an trả tự do cho người bị bắt hoặc thay biện pháp bắt bằng biện pháp khác thì phải thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn việc bắt.
Điều 97 Bị can, bị cáo phạm tội và người đại diện theo luật định, người thân thích hoặc người bào chữa của họ có quyền áp dụng biện pháp thay đổi biện pháp bắt buộc. Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có liên quan quyết định trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được đơn và phải thông báo cho người có đơn và biết lý do không chấp thuận những thay đổi đó.
Điều 98 Nếu vụ án liên quan đến bị can hoặc bị cáo đang bị tạm giam không thể được kết thúc trong thời hạn quy định tại đây để tạm giữ nghi can hoặc bị cáo hình sự để điều tra, để tiến hành thẩm tra trước khi truy tố, hoặc xét xử sơ thẩm hoặc sơ thẩm, nghi phạm hoặc bị cáo sẽ được trả tự do. Trong trường hợp cần điều tra, xác minh hoặc xét xử thêm, nghi phạm hoặc bị cáo có thể được tại ngoại trong thời gian chờ xét xử hoặc bị giám sát tại khu dân cư.
Điều 99 Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an khi hết thời hạn luật định áp dụng biện pháp bắt buộc đối với nghi can hoặc bị cáo hình sự, trả tự do cho nghi can hoặc bị cáo, chấm dứt việc tại ngoại chờ xét xử hoặc theo dõi tại khu dân cư. hoặc thay đổi biện pháp bắt buộc theo quy định của pháp luật. Bị can, bị cáo phạm tội và người đại diện theo luật định, người thân thích, người bào chữa của họ có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Công an chấm dứt áp dụng biện pháp bắt buộc khi hết thời hạn luật định.
Điều 100 Trường hợp trong quá trình thẩm tra, phê chuẩn việc bắt, Viện kiểm sát nhân dân phát hiện thấy những điều trái pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan Công an thì thông báo cho cơ quan Công an biết để chấn chỉnh và cơ quan Công an thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân biết. sửa chữa nó đã thực hiện.
Chương VII Hành động dân sự ngẫu nhiên
Điều 101 Người bị hại bị thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội của bị cáo có quyền khởi kiện dân sự trong quá trình tố tụng hình sự. Trong trường hợp nạn nhân đã chết, mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích của họ có quyền khởi kiện vụ việc dân sự.
Trong trường hợp để xảy ra thất thoát tài sản của Nhà nước, tài sản thuộc sở hữu chung thì Viện kiểm sát nhân dân có thể khởi tố vụ án dân sự khi khởi tố công khai.
Điều 102 Khi cần thiết, Toà án nhân dân có thể áp dụng biện pháp bảo quản để niêm phong, thu giữ hoặc phong toả tài sản của bị đơn. Nguyên đơn khởi kiện vụ việc dân sự ngẫu nhiên, Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu Toà án nhân dân áp dụng biện pháp bảo lưu. Tòa án nhân dân thực hiện theo quy định của Luật Tố tụng dân sự khi thực hiện các biện pháp bảo quản.
Điều 103 Tòa án nhân dân khi xét xử một vụ việc dân sự ngẫu nhiên có thể tiến hành hòa giải hoặc ra phán quyết, xét xử theo thiệt hại về tài sản.
Điều 104 Một vụ kiện dân sự ngẫu nhiên sẽ được xét xử cùng với vụ án hình sự. Chỉ nhằm mục đích ngăn chặn sự chậm trễ quá mức trong việc xét xử vụ án hình sự, sau khi kết thúc việc xét xử vụ án hình sự, cùng một tổ chức tư pháp mới có thể tiếp tục xét xử vụ việc dân sự ngẫu nhiên.
Chương VIII Khoảng thời gian và dịch vụ
Điều 105 Khoảng thời gian được tính theo giờ, ngày và tháng.
Giờ và ngày bắt đầu một khoảng thời gian sẽ không được tính là trong khoảng thời gian đó.
Khoảng thời gian theo quy định của pháp luật sẽ không bao gồm thời gian đi lại. Kháng nghị hoặc các tài liệu khác đã được gửi qua đường bưu điện trước khi hết thời hạn sẽ không bị coi là quá hạn.
Nếu ngày cuối cùng của một khoảng thời gian luật định rơi vào ngày nghỉ lễ, thì ngày ngay sau ngày nghỉ lễ đó sẽ được coi là ngày hết hạn của khoảng thời gian đó. Tuy nhiên, thời hạn tạm giữ bị can, bị cáo hoặc tội phạm hình sự sẽ hết hạn vào ngày cuối cùng của thời hạn đó và sẽ không được gia hạn do ngày nghỉ lễ.
Điều 106 Khi một bên không thể đáp ứng được thời hạn do những nguyên nhân không thể cưỡng lại được hoặc vì những lý do chính đáng khác, trong vòng năm ngày sau khi chướng ngại vật được loại bỏ, bên đó có thể nộp đơn tiếp tục các thủ tục mà lẽ ra đã được hoàn thành trước khi hết thời hạn đó.
Tòa án nhân dân sẽ quyết định có hay không chấp thuận đơn được mô tả ở đoạn trên.
Điều 107 Giấy triệu tập, thông báo và các tài liệu khác của toà án phải được chuyển cho chính người đó; nếu người nhận vắng mặt, các tài liệu đó có thể được người lớn trong gia đình hoặc người có trách nhiệm trong đơn vị của người đó nhận thay.
Trường hợp người nhận hoặc người nhận thay mặt từ chối nhận hoặc không ký, đóng dấu vào giấy biên nhận thì người tống đạt có thể hỏi hàng xóm của người nhận hoặc những người chứng kiến ​​khác đến hiện trường giải thích sự việc. đối với họ, để lại các tài liệu tại nơi ở của người nhận, ghi trên giấy chứng nhận tống đạt thông tin cụ thể về việc từ chối và ngày tống đạt và ký tên vào giấy chứng nhận đó; do đó, dịch vụ sẽ được coi là đã hoàn thành.
Chương IX Các điều khoản khác
Điều 108 Theo mục đích của Luật, định nghĩa của các thuật ngữ sau đây là:
(1) “Điều tra” là công tác điều tra chuyên ngành và các biện pháp bắt buộc có liên quan do cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân thực hiện theo quy định của pháp luật trong quá trình thu thập chứng cứ và điều tra, giải quyết vụ án hình sự.
(2) “các bên” có nghĩa là nạn nhân, công tố viên riêng, nghi phạm hình sự, bị cáo và nguyên đơn và bị đơn trong các vụ kiện dân sự ngẫu nhiên.
(3) “đại diện hợp pháp” có nghĩa là cha mẹ, cha mẹ nuôi hoặc người giám hộ của một người được đại diện và đại diện của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức công chịu trách nhiệm bảo vệ người đó;
(4) “người tham gia tố tụng” là đương sự, người đại diện theo pháp luật, người đại diện tố tụng, người bào chữa, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch;
(5) “đại diện tố tụng” có nghĩa là người được nạn nhân ủy thác trong các vụ việc bị truy tố công khai và người đại diện hợp pháp hoặc người thân của họ và bởi công tố viên riêng trong vụ việc bị truy tố riêng và người đại diện hợp pháp của họ thay mặt họ tham gia tố tụng và người được các bên tham gia tố tụng dân sự và người đại diện hợp pháp của họ thay mặt họ tham gia tố tụng.
(6) “Họ hàng gần” có nghĩa là vợ hoặc chồng, cha, mẹ, con trai, con gái và anh chị em của một người cùng cha khác mẹ.
Phần hai Nộp hồ sơ vụ án, điều tra và bắt đầu truy tố công khai
Chương I Nộp hồ sơ
Điều 109 Cơ quan công an hoặc Viện kiểm sát nhân dân khi phát hiện có tình tiết tội phạm hoặc người bị tình nghi phạm tội phải lập hồ sơ để điều tra trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Điều 110 Mọi tổ chức, cá nhân khi phát hiện ra tình tiết tội phạm, nghi phạm có quyền, nghĩa vụ trình báo vụ án hoặc cung cấp thông tin cho cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.
Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thụ lý mọi tin báo, tố giác, tin báo. Nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình thì chuyển vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền và thông báo cho người đã tố cáo, tố cáo hoặc cung cấp thông tin. Trường hợp không thuộc thẩm quyền mà cần áp dụng biện pháp khẩn cấp thì phải thực hiện các biện pháp khẩn cấp trước khi chuyển vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền.
Trường hợp người phạm tội tự nộp mình tại cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân thì áp dụng quy định tại khoản XNUMX.
Điều 110 Các báo cáo, cáo buộc và thông tin có thể được gửi bằng văn bản hoặc bằng miệng. Cán bộ tiếp nhận đơn tố cáo, tố cáo, thông tin miệng phải lập biên bản, sau khi cho người trình báo, người tố cáo, người cung cấp thông tin đọc và thấy không có sai sót thì cán bộ đó phải ký hoặc đóng dấu.
Cán bộ tiếp nhận thông tin tố cáo phải giải thích rõ ràng cho người tố cáo hoặc người cung cấp thông tin về trách nhiệm pháp lý đối với việc tố cáo sai sự thật. Tuy nhiên, khiếu nại hoặc thông tin không phù hợp với sự thật, hoặc thậm chí là khiếu nại nhầm lẫn sẽ được phân biệt rõ ràng với cáo buộc sai sự thật, miễn là không có sự ngụy tạo hoặc làm sai lệch bằng chứng.
Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân bảo đảm an toàn cho người báo cáo, tố cáo, đưa tin và những người thân thích của họ. Nếu người báo cáo, người tố cáo, người cung cấp thông tin không muốn tiết lộ tên tuổi và hành vi đưa tin, khiếu nại, thông tin cho công chúng biết thì những điều này phải được giữ bí mật cho họ.
Điều 112 Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an trong phạm vi quyền hạn của mình có trách nhiệm kiểm tra kịp thời tài liệu do người tố cáo, người tố cáo, người đưa tin và lời khai của người phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú. Nếu cho rằng có tình tiết phạm tội và phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ khởi tố vụ án. Nếu cho rằng không có tình tiết phạm tội hoặc tình tiết rõ ràng là ngẫu nhiên và không cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì không khởi tố và thông báo lý do cho người bị tố cáo. Nếu người tố cáo không đồng ý với quyết định đó thì có thể yêu cầu xem xét lại.
Điều 113 Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân xét thấy vụ án phải đưa cơ quan công an điều tra nhưng người bị hại không thực hiện hoặc người bị hại cho rằng vụ án phải chuyển cơ quan công an điều tra nhưng người bị hại đã không thực hiện và người bị hại đã đưa sự việc ra Viện kiểm sát nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu cơ quan công an nêu lý do không khởi tố vụ án. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân xét thấy lý do không giải quyết được của cơ quan công an thì thông báo cho cơ quan công an thụ lý và khi nhận được thông báo thì cơ quan công an thụ lý hồ sơ.
Điều 114 Đối với trường hợp khởi tố riêng, người bị hại có quyền trực tiếp khởi kiện ra Tòa án nhân dân. Nếu nạn nhân đã chết hoặc mất khả năng hành vi thì người đại diện hợp pháp, người thân thích của họ có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân thụ lý theo quy định của pháp luật.
Chương II Điều tra
Phần 1 Các quy định chung
Điều 115 Đối với vụ án hình sự đã được khởi tố, cơ quan Công an tiến hành điều tra, thu thập, lấy chứng cứ để chứng minh nghi phạm có tội hay vô tội hoặc chứng minh tội phạm là nhẹ, nghiêm trọng. Trước tiên, người bị bắt quả tang hoặc nghi phạm chính có thể bị tạm giữ theo pháp luật, nghi phạm phạm tội có đủ điều kiện bắt giữ thì bị bắt theo pháp luật.
Điều 116 Sau khi điều tra, cơ quan công an bắt đầu điều tra sơ bộ vụ án có chứng cứ xác minh tình tiết tội phạm để xác minh chứng cứ đã thu thập được.
Điều 117 Bên có liên quan, người bào chữa của họ, người đại diện tố tụng hoặc một bên liên quan có quyền gửi đơn yêu cầu hoặc buộc tội đến cơ quan tư pháp nếu họ có ý kiến ​​với cơ quan tư pháp hoặc nhân viên của cơ quan đó có bất kỳ các hành vi sau:
(1) không ra lệnh từ bỏ, chấm dứt hoặc thay đổi biện pháp bắt buộc khi hết thời hạn luật định;
(2) không trả lại tiền bảo lãnh tại ngoại trong thời gian chờ xét xử sẽ được trả lại;
(3) niêm phong, thu giữ hoặc phong tỏa tài sản không liên quan đến vụ án đang xử lý;
(4) không chấm dứt việc niêm phong, thu giữ và phong tỏa tài sản theo yêu cầu; hoặc là
(5) biển thủ, chiếm đoạt, phân chia tư nhân, thay thế, hoặc sử dụng vi phạm các quy định có liên quan tài sản đã bị niêm phong, thu giữ hoặc phong toả.
Cơ quan đã thụ lý đơn, tố cáo có trách nhiệm xử lý đơn, tố cáo kịp thời. Đương sự có đơn yêu cầu, tố cáo có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nếu có ý kiến ​​phản đối về kết quả giải quyết. Đối với vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý thì đương sự có thể khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện kiểm sát nhân dân kịp thời xem xét kháng nghị và thông báo cho cơ quan hữu quan biết để sửa chữa nếu xét thấy kháng cáo là đúng.
Phần 2 Thẩm vấn nghi phạm hình sự
Điều 118 Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an tiến hành. Trong khi hỏi cung phải có không ít hơn hai Điều tra viên tham gia.
Sau khi nghi can phạm tội được chuyển đến nhà tạm giữ để tạm giữ, Điều tra viên tiến hành hỏi cung tại nhà tạm giữ.
Điều 119 Một nghi phạm hình sự không cần bị bắt hoặc bị tạm giữ có thể được triệu tập đến một địa điểm được chỉ định của thành phố hoặc quận nơi người đó sinh sống hoặc nơi ở của anh ta / cô ta để thẩm vấn, với điều kiện là các tài liệu hỗ trợ được cấp bởi Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an có liên quan được trang bị. Một nghi phạm hình sự được phát hiện tại hiện trường có thể được nhân viên thực thi pháp luật triệu tập bằng lời nói bằng cách xuất trình giấy chứng nhận công tác của anh ta / cô ta, với điều kiện việc triệu tập bằng miệng phải được ghi vào biên bản thẩm vấn.
Lệnh triệu tập hoặc bắt buộc phải có mặt tại tòa án sẽ không kéo dài quá 12 giờ. Đối với những trường hợp phức tạp về tình tiết nghiêm trọng cần phải tạm giam, bắt giữ thì thời gian triệu tập hoặc bắt buộc ra tòa không quá 24 giờ.
Một nghi phạm tội phạm sẽ không bị giam giữ dưới sự ngụy trang của các lệnh triệu tập liên tiếp hoặc sự xuất hiện bắt buộc. Nghi phạm tội phạm sẽ được bảo đảm về ăn uống và nghỉ ngơi cần thiết khi anh ta / cô ta bị triệu tập hoặc buộc phải trình diện trước điều tra viên.
Điều 120 Khi thẩm vấn một nghi can tội phạm, trước tiên, Điều tra viên phải hỏi nghi phạm tội phạm đó có thực hiện hành vi phạm tội nào hay không và để anh ta nói rõ hoàn cảnh phạm tội của anh ta hoặc giải thích anh ta / cô ta vô tội; thì các nhà điều tra có thể hỏi anh ta những câu hỏi. Nghi can phải trả lời trung thực các câu hỏi của Điều tra viên nhưng có quyền từ chối trả lời những câu hỏi không liên quan đến vụ án.
Khi hỏi cung nghi phạm, Điều tra viên phải thông báo cho nghi phạm biết các quy định của pháp luật về việc khoan hồng đối với người thành khẩn khai nhận tội phạm, quy định về việc nhận tội và chấp nhận hình phạt.
Điều 121 Trong quá trình thẩm vấn một nghi phạm tội phạm bị khiếm thính hoặc khiếm thính, một sĩ quan thông thạo ngôn ngữ ký hiệu sẽ tham gia và những tình tiết đó sẽ được ghi vào hồ sơ.
Điều 122 Biên bản thẩm vấn sẽ được đưa cho nghi phạm tội phạm để kiểm tra; nếu nghi phạm tội phạm không đọc được, thì biên bản sẽ được đọc cho anh ta. Nếu có thiếu sót hoặc sai sót trong hồ sơ, nghi can tội phạm có thể bổ sung hoặc sửa chữa. Khi nghi can phạm tội xác nhận rằng biên bản không có sai sót thì ký tên hoặc đóng dấu vào biên bản. Các điều tra viên cũng phải ký vào biên bản. Nếu nghi phạm tội phạm yêu cầu viết bản tường trình cá nhân, anh ta sẽ được phép làm như vậy. Khi cần thiết, các điều tra viên cũng có thể yêu cầu nghi phạm tội phạm viết bản tường trình cá nhân.
Điều 123 Điều tra viên, khi thẩm vấn một nghi phạm tội phạm, có thể ghi lại hoặc ghi hình quá trình thẩm vấn, và sẽ làm như vậy khi nghi can phạm tội có liên quan đến một tội phạm có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình hoặc trong một vụ án hình sự lớn khác.
Việc ghi âm hoặc quay video sẽ chạy xuyên suốt quá trình thẩm vấn nhằm mục đích hoàn chỉnh.
Phần 3 Chất vấn Nhân chứng
Điều 124 Điều tra viên có thể thẩm vấn nhân chứng tại hiện trường, cơ sở của chủ nhân, nơi ở của họ hoặc địa điểm do nhân chứng chỉ định. Trong trường hợp cần thiết, người làm chứng có thể được thông báo để cung cấp lời khai tại Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an. Nếu xét hỏi người làm chứng tại hiện trường thì Điều tra viên xuất trình giấy chứng nhận công tác của họ; và nếu người làm chứng bị hỏi cung tại cơ sở của người sử dụng lao động, nơi ở của người đó hoặc địa điểm do người làm chứng chỉ định thì Điều tra viên phải xuất trình các tài liệu chứng minh do Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan Công an cấp.
Nhân chứng sẽ được thẩm vấn riêng lẻ.
Điều 125 Khi người làm chứng bị thẩm vấn, người đó phải được hướng dẫn cung cấp bằng chứng và lời khai trung thực và sẽ được thông báo về trách nhiệm pháp lý phải chịu đối với việc cố ý đưa ra lời khai gian dối hoặc che giấu bằng chứng phạm tội.
Điều 126 Các quy định tại Điều 122 của Luật cũng sẽ được áp dụng đối với việc thẩm vấn nhân chứng.
Điều 127 Các quy định của tất cả các điều trong Phần này sẽ được áp dụng cho việc thẩm vấn nạn nhân.
Phần 4 Yêu cầu và Kiểm tra
Điều 128 Điều tra viên sẽ tiến hành khám nghiệm hoặc khám nghiệm địa điểm, đồ vật, người và tử thi có liên quan đến tội phạm. Trong trường hợp cần thiết, các chuyên gia có thể được chỉ định hoặc mời các chuyên gia tiến hành việc thẩm tra, giám định dưới sự chỉ đạo của Điều tra viên.
Điều 129 Mỗi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo quản hiện trường vụ án và thông báo ngay cho cơ quan Công an để cử cán bộ đến khám xét.
Điều 130 Điều tra viên phải có giấy tờ của Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an cấp.
Điều 131 Trường hợp chưa rõ nguyên nhân chết thì cơ quan công an có thẩm quyền ra lệnh khám nghiệm và thông báo cho người nhà của người chết có mặt.
Điều 132 Để xác định một số đặc điểm, tình trạng thương tích hoặc tình trạng thể chất của nạn nhân hoặc nghi phạm tội phạm, có thể tiến hành khám sức khỏe và thu thập dấu vân tay, máu, nước tiểu và các mẫu sinh học khác.
Nếu nghi can phạm tội từ chối khám nghiệm thì khi xét thấy cần thiết, Điều tra viên có thể tiến hành khám nghiệm bắt buộc.
Việc kiểm tra nhân thân của phụ nữ sẽ do các nữ sĩ quan hoặc bác sĩ tiến hành.
Điều 133 Một biên bản phải được lập về hoàn cảnh của một cuộc thẩm vấn hoặc kiểm tra, và nó phải được ký hoặc đóng dấu bởi những người tham gia vào cuộc yêu cầu hoặc kiểm tra và những người chứng kiến.
Điều 134 Trường hợp khi xem xét một vụ án, Viện kiểm sát nhân dân xét thấy cần phải thực hiện lại việc trưng cầu, thẩm tra mà cơ quan công an đã thực hiện thì có thể yêu cầu cơ quan công an tiến hành khám, xét nghiệm lại và có thể cử Kiểm sát viên tham gia. trong đó.
Điều 135 Để xác định tình hình của vụ án, khi cần thiết, các thí nghiệm điều tra có thể được tiến hành với sự chấp thuận của người phụ trách cơ quan công an.
Thông tin về thí nghiệm điều tra phải được lập thành biên bản và có chữ ký hoặc đóng dấu của những người tham gia.
Khi tiến hành các thí nghiệm điều tra, không được thực hiện bất kỳ hành động nào nguy hiểm, làm nhục bất kỳ ai hoặc xúc phạm đến đạo đức công vụ.
Phần 5 Tìm kiếm
Điều 136 Để thu thập bằng chứng phạm tội và truy tìm kẻ phạm tội, điều tra viên có thể khám xét người, đồ đạc và nơi ở của nghi phạm tội phạm và bất kỳ ai có thể đang che giấu bằng chứng phạm tội hoặc tội phạm, cũng như những nơi khác có liên quan.
Điều 137 Mọi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp bằng chứng vật chất, bằng chứng tài liệu, tài liệu nghe nhìn và các bằng chứng khác có thể làm bằng chứng gỡ tội hoặc bằng chứng vô tội cho một nghi phạm tội phạm theo yêu cầu của viện kiểm sát nhân dân hoặc công cơ quan an ninh.
Điều 138 Khi khám xét người bị khám xét phải giao cho người bị khám xét.
Nếu trường hợp khẩn cấp xảy ra khi đang bị bắt, tạm giam thì có thể tiến hành khám xét mà không cần lệnh khám xét.
Điều 139 Khi khám xét, người được khám hoặc người nhà, hàng xóm hoặc những người chứng kiến ​​khác phải có mặt tại hiện trường.
Việc khám xét cơ thể phụ nữ sẽ do các sĩ quan nữ tiến hành.
Điều 140 Một biên bản phải được lập về các trường hợp khám xét, và được ký hoặc đóng dấu bởi các điều tra viên và người được khám xét hoặc các thành viên trong gia đình, hàng xóm hoặc những nhân chứng khác của họ. Nếu người bị khám xét hoặc các thành viên trong gia đình của họ đã trở thành kẻ đào tẩu hoặc từ chối ký hoặc đóng dấu vào hồ sơ, điều này sẽ được ghi vào hồ sơ.
Phần 6 Niêm phong, thu giữ vật chứng và tài liệu chứng cứ
Điều 141 Tất cả tài sản và tài liệu được tìm thấy trong quá trình điều tra có thể chứng minh tội phạm hoặc sự vô tội của nghi phạm sẽ được niêm phong hoặc thu giữ. Tài sản, tài liệu không liên quan đến vụ án không được niêm phong, thu giữ.
Tài sản, tài liệu bị niêm phong, thu giữ phải được bảo quản, niêm phong đúng cách để bảo quản an toàn, không được sử dụng, thay thế hoặc làm hư hỏng.
Điều 142 Tài sản hoặc tài liệu bị niêm phong hoặc thu giữ phải được hạch toán rõ ràng trước sự chứng kiến ​​của người làm chứng và người giữ tài sản, tài liệu đó. Một danh sách phải được lập thành bản tại hiện trường và có chữ ký hoặc đóng dấu của các điều tra viên, nhân chứng và người nắm giữ nói trên, một bản giao cho người giữ và bản còn lại đính kèm để lưu trữ sau này.
Điều 143 Nếu Điều tra viên xét thấy cần thu giữ thư tín, điện tín của nghi can phạm tội thì khi được sự đồng ý của cơ quan Công an hoặc Viện kiểm sát nhân dân thông báo cho cơ quan bưu chính, viễn thông để kiểm tra và giao nộp thư, điện tín có liên quan để co giật.
Trường hợp không cần thiết phải tiếp tục thu giữ thì thông báo ngay cho cơ quan bưu chính viễn thông.
Điều 144 Khi có yêu cầu điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có thể truy cập hoặc phong tỏa các khoản tiền gửi, chuyển tiền, trái phiếu, cổ phiếu, cổ phiếu quỹ hoặc tài sản khác của nghi can tội phạm theo quy định hiện hành, trong trường hợp đó các tổ chức, cá nhân có liên quan phải cung cấp sự hợp tác.
Các khoản tiền gửi, chuyển tiền, trái phiếu, cổ phiếu, cổ phiếu quỹ hoặc tài sản khác của nghi phạm tội phạm không được đóng băng nhiều lần.
Điều 145 Tài sản, tài liệu, thư tín hoặc điện báo bị niêm phong hoặc bị thu giữ hoặc các khoản tiền gửi, chuyển tiền, trái phiếu, cổ phiếu hoặc cổ phiếu của quỹ bị phong tỏa sẽ được giải phóng và trả lại trong vòng ba ngày sau khi chúng được phát hiện là không liên quan đến vụ án khi điều tra.
Phần 7 Đánh giá chuyên gia
Điều 146 Khi cần giải quyết một số vấn đề đặc biệt liên quan đến một vụ án để làm rõ các tình tiết của vụ án, các chuyên gia sẽ được phân công hoặc mời chuyên gia thẩm định.
Điều 147 Sau khi thẩm định, chuyên gia đưa ra ý kiến ​​thẩm định bằng văn bản và có chữ ký của chuyên gia.
Người giám định phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu cố tình đưa ra ý kiến ​​thẩm định sai lệch.
Điều 148 Cơ quan điều tra phải thông báo cho nghi phạm tội phạm và nạn nhân về ý kiến ​​giám định sẽ được sử dụng làm bằng chứng trong vụ án của họ. Việc xác minh chuyên gia bổ sung hoặc một cuộc xác minh chuyên môn khác có thể được tiến hành khi có đơn của nghi phạm tội phạm hoặc nạn nhân.
Điều 149 Thời gian xác minh bệnh tâm thần của nghi can phạm tội không được tính vào thời gian thụ lý vụ án.
Phần 8 Các biện pháp điều tra kỹ thuật
Điều 150 Sau khi đưa vụ án vào hồ sơ, căn cứ vào nhu cầu điều tra tội phạm và sau khi trải qua các thủ tục phê duyệt nghiêm ngặt, cơ quan công an có thể áp dụng các biện pháp kỹ thuật điều tra nếu vụ án liên quan đến các tội gây nguy hiểm đến an ninh Nhà nước, tội phạm hoạt động khủng bố, có tổ chức. tội phạm theo nhóm có tính chất tập hợp tội phạm, tội phạm lớn về ma tuý hoặc tội phạm khác gây nguy hiểm nghiêm trọng cho xã hội.
Đối với vụ án tham nhũng, hối lộ lớn, vụ án liên quan đến tội lớn xâm hại nghiêm trọng quyền nhân thân của công dân do lạm quyền, sau khi đưa vụ án vào hồ sơ, Viện kiểm sát nhân dân có thể căn cứ vào nhu cầu điều tra tội phạm. và sau khi trải qua các thủ tục phê duyệt nghiêm ngặt, sử dụng các biện pháp điều tra kỹ thuật và chuyển cho các cơ quan có liên quan để thực hiện các biện pháp đó theo các quy định hiện hành.
Để truy bắt một nghi phạm bỏ trốn hoặc một bị cáo bỏ trốn nằm trong danh sách truy nã hoặc việc bắt giữ đã được phê duyệt hoặc quyết định, các biện pháp điều tra kỹ thuật cần thiết có thể được thực hiện khi được phê duyệt.
Điều 151 Quyết định phê duyệt các loại biện pháp điều tra kỹ thuật sẽ được thông qua và các bên áp dụng các biện pháp đó sẽ được đưa ra dựa trên nhu cầu điều tra tội phạm. Quyết định phê duyệt có hiệu lực trong thời hạn ba tháng kể từ ngày được ban hành. Các biện pháp điều tra kỹ thuật phải được chấm dứt ngay khi không còn cần thiết. Đối với những trường hợp khó, phức tạp, nếu hết thời hạn vẫn phải thực hiện các biện pháp kỹ thuật điều tra thì thời hạn hiệu lực của biện pháp này có thể được gia hạn khi được phê duyệt, mỗi lần gia hạn tối đa là ba tháng.
Điều 152 Các biện pháp điều tra kỹ thuật phải được thực hiện theo đúng loại hình, đối tượng áp dụng và thời hạn đã được phê duyệt.
Điều tra viên phải giữ bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh và bí mật cá nhân mà họ biết được trong quá trình điều tra bằng các biện pháp điều tra kỹ thuật và phải tiêu hủy ngay những thông tin, tài liệu thu được bằng các biện pháp kỹ thuật điều tra không liên quan đến vụ án.
Tài liệu thu được bằng các biện pháp kỹ thuật điều tra chỉ được sử dụng cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, không được sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác.
Các tổ chức, cá nhân có liên quan phối hợp với cơ quan Công an áp dụng các biện pháp kỹ thuật điều tra theo quy định của pháp luật và phải bảo mật các thông tin liên quan.
Điều 153 Để xác định tình hình của một vụ án, khi cần thiết và phải được sự chấp thuận của người phụ trách cơ quan công an, người có liên quan có thể được chỉ định tiến hành điều tra bí mật, với điều kiện các biện pháp được áp dụng trong cuộc điều tra bí mật không được người khác phạm tội và không gây nguy hiểm cho an ninh công cộng hoặc đe dọa nghiêm trọng đến an toàn cá nhân của người khác.
Đối với các hoạt động tội phạm liên quan đến việc vận chuyển ma túy, hàng lậu hoặc tài sản, cơ quan công an có thể, khi cần thiết để điều tra tội phạm, thực hiện việc phân phối có kiểm soát phù hợp với các quy định có liên quan.
Điều 154 Các tài liệu được thu thập bằng phương tiện điều tra phù hợp với các quy định của phần này có thể được sử dụng làm bằng chứng trong tố tụng hình sự. Trong trường hợp việc sử dụng những bằng chứng đó có thể đe dọa đến sự an toàn cá nhân của những người có liên quan hoặc dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng khác, thì các biện pháp bảo vệ phải được áp dụng để tránh việc các biện pháp kỹ thuật đã áp dụng và danh tính thật của những người đó bị lộ và khi cần thiết, các thẩm phán có thể xác minh bằng chứng bên ngoài phòng xử án.
Phần 9 Lệnh truy nã
Điều 155 Trong trường hợp nghi can tội phạm trốn chạy, cơ quan công an có thể ra lệnh truy nã và áp dụng các biện pháp hữu hiệu để truy bắt người đó để bắt và đưa người đó ra xét xử.
Cơ quan Công an các cấp có quyền trực tiếp ra lệnh truy nã trong phạm vi địa bàn mình quản lý và yêu cầu cơ quan cấp trên có thẩm quyền ra lệnh đối với địa bàn vượt thẩm quyền.
Phần 10 Kết luận Điều tra
Điều 156 Thời hạn tạm giữ nghi can hình sự trong quá trình điều tra sau khi bắt được không quá hai tháng. Nếu vụ án phức tạp mà không thể kết luận được trong thời hạn thì có thể kéo dài thêm một tháng khi được sự đồng ý của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên.
Điều 157 Trường hợp vì lý do đặc biệt, chưa thể giao vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp để xét xử trong thời hạn tương đối dài thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc. chấp thuận hoãn phiên xử vụ án.
Điều 158 Đối với những trường hợp sau đây, nếu trong thời hạn quy định tại Điều 156 của Luật mà không kết luận được điều tra thì có thể gia hạn thêm hai tháng khi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, khu tự trị, đô thị được quyền phê chuẩn hoặc quyết định. trực thuộc Trung ương:
(1) các trường hợp nghiêm trọng và phức tạp ở các khu vực ngoại ô nơi giao thông bất tiện nhất;
(2) các vụ án nghiêm trọng liên quan đến các băng nhóm tội phạm;
(3) các trường hợp nghiêm trọng và phức tạp liên quan đến những người phạm tội từ nơi này đến nơi khác; và
(4) các trường hợp nghiêm trọng và phức tạp liên quan đến nhiều khu khác nhau và rất khó thu thập bằng chứng.
Điều 159 Nếu trong trường hợp bị can phạm tội có thể bị phạt tù có thời hạn từ mười năm trở lên mà hết thời hạn gia hạn quy định tại Điều 158 của Bộ luật thì vẫn chưa thể kết luận điều tra vụ án. được phép gia hạn thêm hai tháng khi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương phê chuẩn hoặc quyết định.
Điều 160 Nếu trong thời gian điều tra mà phát hiện được nghi can phạm tội lớn khác thì thời hạn tạm giữ nghi can để điều tra được tính lại kể từ ngày phát hiện ra các tội phạm khác trong phù hợp với Điều 156 của Hợp đồng này.
Nếu không xác định được danh tính, địa chỉ xác thực thì sẽ tiến hành điều tra danh tính nghi phạm hình sự, trường hợp này thời hạn tạm giữ nghi phạm để điều tra được tính là ngày xác định được danh tính của anh ta / cô ta, với điều kiện là việc điều tra các hành vi phạm tội của anh ta / cô ta và việc thu thập chứng cứ sẽ không bị đình chỉ. Trong trường hợp thực sự không thể xác định được danh tính của nghi phạm tội phạm nhưng sự việc phạm tội rõ ràng, bằng chứng đầy đủ và cụ thể thì có thể tiến hành truy tố và xét xử dưới tên do nghi phạm tội phạm cung cấp.
Điều 161 Cơ quan điều tra có trách nhiệm lắng nghe ý kiến ​​của luật sư bào chữa trước khi kết thúc điều tra vụ án nếu luật sư bào chữa yêu cầu và ghi ý kiến ​​vào hồ sơ vụ án. Văn bản ý kiến ​​của luật sư bào chữa phải được đính kèm vào hồ sơ vụ án.
Điều 162 Vụ án mà cơ quan công an điều tra thì phải có tình tiết rõ ràng về tội phạm, chứng cứ đầy đủ, cụ thể. Cơ quan công an lập bản ghi ý kiến ​​truy tố và gửi kèm theo hồ sơ, chứng cứ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét, quyết định, đồng thời thông báo cho bị can và luật sư bào chữa của họ biết. việc chuyển trường hợp.
Trường hợp nghi can phạm tội tự nguyện nhận tội thì tình tiết sẽ được ghi lại, chuyển hồ sơ vụ án và được nêu trong quan điểm truy tố.
Điều 163 Nếu trong quá trình điều tra mà phát hiện ra nghi can không phải chịu trách nhiệm hình sự thì vụ án sẽ bị hủy bỏ; nếu nghi can phạm tội đang bị bắt thì được trả tự do ngay lập tức và được cấp giấy chứng nhận trả tự do, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn việc bắt ban đầu.
Mục 11 Điều tra vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý
Điều 164 Việc điều tra những vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý thực hiện theo quy định của Chương này.
Điều 165 Nếu vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý phù hợp với các điều kiện quy định tại Điều 81 và điểm (4) hoặc điểm (5) Điều 82 của Bộ luật, thì việc bắt hoặc tạm giam bị can là cần thiết thì Viện kiểm sát nhân dân quyết định, cơ quan công an thực hiện.
Điều 166 Viện kiểm sát nhân dân xét hỏi người bị tạm giữ trong vụ án do Viện kiểm sát trực tiếp thụ lý trong thời hạn 24 giờ sau khi tạm giữ. Nếu xét thấy người đó không đáng bị tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân trả tự do ngay và cấp giấy chứng nhận trả tự do cho người đó.
Điều 167 Trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân xét thấy cần phải bắt tạm giam trong vụ án do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lý thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định trong thời hạn 14 ngày. Trong những trường hợp đặc biệt, thời hạn ra quyết định bắt giữ có thể được kéo dài thêm từ một đến ba ngày. Trong trường hợp không cần thiết phải bắt giữ, người bị tạm giữ phải được trả tự do ngay lập tức. Trường hợp cần điều tra thêm và người bị tạm giữ đủ điều kiện được tại ngoại chờ xét xử hoặc giám sát tại khu dân cư thì người bị tạm giữ được tại ngoại chờ xét xử hoặc quản thúc tại khu dân cư theo quy định của pháp luật.
Điều 168 Sau khi Viện kiểm sát nhân dân kết thúc điều tra vụ án thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án, không khởi tố hoặc huỷ án.
Chương III Khởi tố Công tố
Điều 169 Mọi trường hợp cần khởi tố công khai đều do Viện kiểm sát nhân dân xem xét, quyết định.
Điều 170 Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm xem xét lại vụ án do cơ quan kiểm sát chuyển sang truy tố theo quy định của Luật và pháp luật Kiểm sát. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cho rằng cần xác minh bổ sung thì chuyển hồ sơ cho cơ quan giám sát để điều tra bổ sung, nếu cần cũng có thể tự mình điều tra bổ sung.
Đối với vụ án do cơ quan giám sát chuyển hồ sơ truy tố đã bị áp dụng biện pháp lưu giữ thì trước hết, Viện kiểm sát nhân dân tiến hành tạm giữ đối với nghi can, biện pháp lưu giữ đương nhiên chấm dứt. Viện kiểm sát nhân dân quyết định bắt, cho tại ngoại chờ xét xử hoặc giám sát dân cư trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày bị tạm giam. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn ra quyết định có thể kéo dài thêm từ một đến bốn ngày. Thời gian Viện kiểm sát nhân dân quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc không được tính vào thời gian xem xét trước khi khởi tố.
Điều 171 Khi xem xét vụ án, Viện kiểm sát nhân dân phải xác định rõ:
(1) liệu các tình tiết và tình tiết của tội phạm có rõ ràng không, bằng chứng có đáng tin cậy và đầy đủ hay không và tội danh và bản chất của tội phạm đã được xác định một cách chính xác hay chưa;
(2) có bất kỳ tội phạm nào đã được bỏ qua hoặc những người khác phải chịu trách nhiệm hình sự hay không;
(3) có phải là trường hợp không phải truy cứu trách nhiệm hình sự hay không;
(4) liệu vụ việc có một hành động dân sự ngẫu nhiên hay không; và
(5) việc điều tra vụ án có được tiến hành hợp pháp hay không.
Điều 172 Đối với những vụ án do cơ quan giám sát, cơ quan công an chuyển hồ sơ truy tố thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định trong thời hạn một tháng. Đối với các trường hợp lớn hoặc phức tạp, có thể được gia hạn thêm 15 ngày. Trường hợp nghi can nhận tội và chấp nhận hình phạt, có đủ điều kiện làm thủ tục giải quyết nhanh thì Viện kiểm sát nhân dân quyết định trong thời hạn mười ngày, đối với tội phạm bị phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, thì thời hạn có thể được kéo dài đến 15 ngày.
Trường hợp thẩm quyền xét vụ án trước khi khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân bị thay đổi thì thời hạn xem xét trước khi truy tố được tính từ ngày Viện kiểm sát nhân dân khác thụ lý vụ án sau khi Viện kiểm sát nhân dân bị thay đổi.
Điều 173 Khi kiểm sát vụ án, Viện kiểm sát nhân dân hỏi cung bị can, nghe ý kiến ​​của người bào chữa hoặc luật sư trực tiếp, người bị hại, người đại diện tố tụng của họ và ghi vào hồ sơ vụ án. Văn bản phát biểu ý kiến ​​của người bào chữa hoặc luật sư trực tiếp, người bị hại và người đại diện tố tụng của họ phải được đính kèm vào hồ sơ vụ án.
Trường hợp bị can nhận tội và chấp nhận hình phạt thì Viện kiểm sát nhân dân phải thông báo cho họ biết quyền tố tụng của họ và các quy định của pháp luật về việc nhận tội và lắng nghe ý kiến ​​của nghi can, người bào chữa hoặc luật sư trực người bị hại và người đại diện tố tụng của họ về những vấn đề sau đây và ghi lại những ý kiến ​​đó vào hồ sơ vụ án:
# (1) các tình tiết bị nghi ngờ về tội ác, tội danh bị buộc tội và các quy định pháp luật hiện hành;
(2) khuyến nghị về hình phạt nhẹ hoặc giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt;
(3) các thủ tục áp dụng cho các xét xử sau khi nhận tội và chấp nhận hình phạt; và
(4) các trường hợp khác cần tìm kiếm ý kiến.
Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân lấy ý kiến ​​của luật sư trực tiếp theo quy định tại hai khoản trên thì viện kiểm sát nhân dân phải tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để tìm hiểu trước các tình tiết liên quan của vụ án.
Điều 174 Bất kỳ nghi phạm tội phạm nào tự nguyện nhận tội, chấp nhận hình phạt và đồng ý về đề nghị kết án và các thủ tục áp dụng phải ký vào bản công nhận nhận tội và chấp nhận hình phạt với sự chứng kiến ​​của người bào chữa hoặc luật sư trực.
Trong bất kỳ trường hợp nào sau đây, nghi phạm tội phạm không cần ký xác nhận nhận tội và chấp nhận hình phạt:
(1) trong trường hợp một nghi phạm hoặc bị cáo bị khiếm thị, khiếm thính hoặc khiếm thị hoặc người bị tâm thần không hoàn toàn mất hết khả năng nhận biết hoặc kiểm soát hành vi của mình;
(2) khi đại diện tố tụng hoặc người bảo vệ của một nghi phạm tội phạm vị thành niên phản đối việc nhận tội và chấp nhận hình phạt của trẻ vị thành niên; hoặc là
(3) các trường hợp khác không cần thiết phải ký vào biên bản nhận tội và chấp nhận hình phạt.
Điều 175 Khi xem xét vụ án, Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu cơ quan công an cung cấp tài liệu chứng cứ cần thiết cho quá trình xét xử tại phiên tòa và có quyền yêu cầu cơ quan công an giải thích tính hợp pháp của việc thu thập chứng cứ nếu có ý kiến ​​cho rằng chứng cứ có thể đã được thu thập bằng các biện pháp trái pháp luật theo quy định tại Điều 56 của Nghị định này.
Khi điều tra vụ án cần điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát nhân dân có thể chuyển vụ án cho cơ quan công an để điều tra bổ sung hoặc tự mình tiến hành điều tra.
Trường hợp điều tra bổ sung thì phải hoàn thành trong vòng một tháng. Điều tra bổ sung có thể được tiến hành nhiều nhất là hai lần. Khi kết thúc điều tra bổ sung, chuyển vụ án sang Viện kiểm sát nhân dân thì thời hạn khám nghiệm, truy tố do Viện kiểm sát nhân dân tính lại.
Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định không khởi tố vụ án mà đã tiến hành điều tra bổ sung lần thứ hai, nếu xét thấy chưa đủ chứng cứ và vụ án không đủ điều kiện khởi tố.
Điều 176 Khi Viện kiểm sát nhân dân cho rằng đã xác định rõ sự thật về tội phạm của nghi phạm, chứng cứ cụ thể, đầy đủ thì nghi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. ra quyết định khởi tố, khởi tố vụ án tại Tòa án nhân dân theo đúng quy định về thẩm quyền xét xử và chuyển tài liệu, chứng cứ vụ án có liên quan cho Tòa án nhân dân.
Trường hợp nghi phạm nhận tội và chấp nhận hình phạt thì Viện kiểm sát nhân dân sẽ đưa ra khuyến nghị về hình phạt chính, hình phạt phụ, hình phạt quản chế, v.v ...; đồng thời chuyển giao công nhận về việc nhận tội và chấp nhận hình phạt cũng như các tài liệu khác về vụ án.
Điều 177 Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định không khởi tố vụ án nếu không có tình tiết xác định tội phạm mà nghi phạm đã thực hiện hoặc có một trong các trường hợp quy định tại Điều 16 của Nghị định này.
Đối với vụ án là người chưa thành niên mà người phạm tội không cần phải xử lý hình sự hoặc không cần được miễn hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định không khởi tố.
Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định không khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát nhân dân có biện pháp giải tỏa tài sản đã niêm phong, tạm giữ, phong tỏa trong quá trình điều tra. Trường hợp xử phạt hành chính, xử phạt hành chính hoặc tịch thu số lợi bất hợp pháp đối với người không bị khởi tố thì Viện kiểm sát nhân dân có ý kiến ​​kiểm sát và chuyển vụ án cho cơ quan có liên quan xử lý. Cơ quan có liên quan phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát nhân dân biết kết quả xử lý.
Điều 178 Quyết định không khởi tố phải được công bố công khai và quyết định đó sẽ được gửi dưới dạng văn bản cho người không bị khởi tố và đơn vị công tác của người đó. Nếu người nói trên đang bị giam giữ, người đó sẽ được trả tự do ngay lập tức.
Điều 179 Đối với vụ án do cơ quan công an chuyển hồ sơ khởi tố, nếu Viện kiểm sát nhân dân quyết định không khởi tố thì chuyển cho cơ quan công an quyết định bằng văn bản. Nếu cơ quan công an xét thấy quyết định không khởi tố là không đúng thì có thể yêu cầu xem xét lại, nếu bác yêu cầu thì có thể gửi viện kiểm sát nhân dân cấp trên xem xét lại.
Điều 180 Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân quyết định không khởi tố vụ án có người bị hại thì phải gửi quyết định bằng văn bản cho người bị hại. Nếu người bị hại không chấp nhận thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được quyết định bằng văn bản, họ có quyền trình bày với Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và yêu cầu khởi tố công khai. Viện kiểm sát nhân dân phải thông báo cho người bị hại về quyết định của mình sau khi kiểm sát lại. Nếu viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên quyết định không khởi tố thì người bị hại có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân. Người bị hại cũng có thể khởi kiện trực tiếp ra tòa án nhân dân mà không cần trình bày trước. Sau khi Tòa án nhân dân thụ lý vụ án, Viện kiểm sát nhân dân chuyển hồ sơ vụ án có liên quan đến Tòa án nhân dân.
Điều 181 Nếu người bị Viện kiểm sát nhân dân quyết định theo quy định tại khoản 177 Điều XNUMX của Bộ luật mà không khởi tố vẫn không chấp nhận thì có quyền trình bày với nhân dân. Viện kiểm sát trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được quyết định bằng văn bản. Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định xem xét lại, thông báo cho người không bị khởi tố, đồng thời gửi cho cơ quan công an một bản sao quyết định.
Điều 182 Trường hợp nghi can khai nhận tội phạm một cách tự nguyện, trung thực, lập công đáng kể hoặc vụ án liên quan đến lợi ích nhà nước lớn thì khi được Viện kiểm sát nhân dân tối cao thẩm tra, phê chuẩn, cơ quan công an có quyền rút hồ sơ, và Viện kiểm sát nhân dân có thể quyết định không khởi tố hoặc có thể quyết định không khởi tố đối với một hoặc một số tội danh bị cáo buộc.
Trường hợp vụ án không được khởi tố hoặc bị thu hồi theo quy định tại khoản trên thì viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an phải xử lý kịp thời tài sản bị niêm phong, thu giữ, phong toả và hoa quả của chúng.
Phần ba Thử nghiệm
Chương I Các tổ chức thử nghiệm
Điều 183 Việc xét xử sơ thẩm các vụ án ở Tòa án nhân dân sơ cấp và Trung cấp do Hội đồng tổng hợp gồm ba Thẩm phán hoặc có ba Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện với tổng số ba hoặc bảy. Tuy nhiên, những trường hợp thủ tục rút gọn hoặc thủ tục nhanh được áp dụng tại tòa án nhân dân có thể do một thẩm phán xét xử.
Việc xét xử sơ thẩm vụ án tại Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao do Hội đồng tổng hợp gồm ba đến bảy thẩm phán hoặc Thẩm phán và hội thẩm nhân dân từ ba đến bảy người tiến hành.
Việc xét xử sơ thẩm vụ án của Tòa án nhân dân tối cao do tập thể có từ ba đến bảy Thẩm phán tiến hành;
Việc xét xử vụ án bị kháng cáo, kháng nghị tại Tòa án nhân dân do Hội đồng tập hợp gồm ba hoặc năm thẩm phán tiến hành.
Các thành viên của hội đồng tập thể sẽ là số lẻ.
Điều 184 Nếu các ý kiến ​​khác nhau khi hội đồng tập thể tiến hành thảo luận, quyết định sẽ được đưa ra theo ý kiến ​​của đa số, nhưng ý kiến ​​của thiểu số sẽ được lưu vào hồ sơ. Biên bản của các cuộc thảo luận phải có chữ ký của các thành viên của hội đồng tập thể.
Điều 185 Sau khi điều trần và cân nhắc, hội đồng tập thể sẽ đưa ra phán quyết. Đối với vụ án khó, phức tạp, trọng điểm mà Hội đồng cấp tập xét thấy khó ra quyết định thì Hội đồng xét xử tập thể chuyển vụ án đó lên Chánh án Tòa án để quyết định đưa vụ án đó ra Ủy ban xét xử để thảo luận. và quyết định. Hội đồng tập thể sẽ thực hiện quyết định của ủy ban tư pháp.
Chương II Thủ tục sơ thẩm
Phần 1 Các trường hợp truy tố công khai
Điều 186 Sau khi Tòa án nhân dân đã xét xử vụ án mà đã khởi tố, thì Tòa án nhân dân quyết định mở phiên tòa để xét xử vụ án, nếu bản cáo trạng có tình tiết rõ ràng về tội danh đã bị khởi tố.
Điều 187 Sau khi quyết định bắt đầu phiên toà xét xử vụ án, Toà án nhân dân xác định thành viên Hội đồng xét xử, tống đạt bản sao cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn mười ngày. trước khi bắt đầu phiên toà.
Trước khi bắt đầu phiên toà, các thẩm phán có thể triệu tập cuộc họp với công tố viên, đương sự và người bào chữa và đại diện tố tụng của họ để thảo luận và tham khảo ý kiến ​​của họ về việc rút tên, danh sách nhân chứng, loại trừ chứng cứ bất hợp pháp và các xét xử khác. -Các vấn đề liên quan.
Sau khi xác định được ngày phiên toà, Toà án nhân dân thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân thời gian, địa điểm phiên toà, triệu tập đương sự, thông báo cho người bào chữa, người đại diện tố tụng, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch của Toà án và tống đạt giấy triệu tập và thông báo ít nhất ba ngày trước khi bắt đầu phiên toà. Trường hợp vụ án phải được xét xử tại phiên toà mở thì tên bị cáo, nguyên nhân dẫn đến hành vi và thời gian, địa điểm của phiên toà phải được thông báo công khai ba ngày trước khi dự kiến ​​phiên toà mở.
Các tình tiết của quá trình tố tụng nêu trên được lập thành biên bản, có chữ ký của Thẩm phán và Thư ký Tòa án.
Điều 188 Tòa án nhân dân xét xử sơ thẩm tại phiên tòa công khai, trừ những vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật cá nhân. Các vụ việc liên quan đến bí mật kinh doanh có thể được xét xử tại phiên toà kín nếu các bên liên quan áp dụng.
Đối với những vụ án không xét xử tại phiên toà mở thì thông báo lý do không xét xử công khai tại Toà án.
Điều 189 Khi xét xử vụ án công tố tại Tòa án nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân có liên quan cử người ra trước Tòa án để hỗ trợ việc truy tố.
Điều 190 Khi mở phiên toà, chủ toạ phiên toà phải biết chắc các đương sự đã có mặt tại toà hay chưa và công bố nội dung vụ án; thông báo thành viên Hội đồng tập thể, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, người bào chữa, người đại diện tố tụng, người giám định, người phiên dịch; thông báo cho các bên về quyền của họ để xin rút bất kỳ thành viên nào của hội đồng tập thể, thư ký tòa án, công tố viên, bất kỳ nhân chứng chuyên môn hoặc thông dịch viên nào; và thông báo cho bị cáo về quyền bào chữa của mình.
Trường hợp bị cáo nhận tội và chấp nhận hình phạt thì chủ tọa phiên tòa phải thông báo cho bị cáo về quyền tố tụng của họ và các quy định của pháp luật về nhận tội và chấp nhận hình phạt, đồng thời xem xét tính tự nguyện của việc nhận tội và chấp nhận hình phạt, và tính xác thực và tính hợp pháp của nội dung văn bản công nhận việc nhận tội và chấp nhận hình phạt.
Điều 191 Sau khi công tố viên đọc xong dự luật truy tố trước tòa, bị cáo và người bị hại có thể trình bày về tội danh bị cáo buộc trong dự luật truy tố, và công tố viên có thể thẩm vấn bị cáo.
Người bị hại, nguyên đơn và người bào chữa trong một vụ kiện dân sự ngẫu nhiên và người đại diện tố tụng, với sự cho phép của chủ tọa phiên tòa, có thể đặt câu hỏi cho bị đơn.
Các thẩm phán có thể thẩm vấn bị cáo.
Điều 192 Người làm chứng có mặt trước tòa án nhân dân để trình bày lời khai trong trường hợp công tố viên, đương sự hoặc người bào chữa hoặc người đại diện tố tụng phản đối lời khai của người làm chứng và lời khai của người làm chứng có tác động quan trọng đến việc kết án và tuyên án. , và tòa án nhân dân xét thấy cần thiết phải yêu cầu người làm chứng trình diện trước tòa.
Trường hợp công an nhân dân xuất hiện trước Tòa án với tư cách là người làm chứng để khai về tội phạm được chứng kiến ​​khi thi hành công vụ thì áp dụng quy định tại khoản trên.
Trường hợp Kiểm sát viên, đương sự hoặc người bào chữa, người đại diện tố tụng có ý kiến ​​phản đối kết quả thẩm định và Tòa án nhân dân xét thấy cần thiết phải trình diện trước Tòa án thì người giám định phải trình diện trước Tòa án để lấy lời khai. Trường hợp người giám định từ chối có mặt trước Tòa án để lấy lời khai khi nhận được thông báo của Tòa án nhân dân thì kết quả giám định không được lấy làm căn cứ để quyết định vụ án.
Điều 193 Trường hợp người làm chứng không có lý do chính đáng không có mặt trước Tòa án nhân dân để trình bày lời khai khi nhận được thông báo của Tòa án nhân dân thì Tòa án nhân dân có quyền buộc người làm chứng có mặt, trừ trường hợp người làm chứng là vợ, chồng, cha, mẹ, con. của bị đơn.
Trường hợp người làm chứng không có lý do chính đáng, từ chối trình diện trước toà án nhân dân hoặc từ chối khai trước toà án thì phải khuyên nhủ người làm chứng và trong trường hợp nghiêm trọng, người làm chứng có thể bị tạm giam không quá mười ngày với sự chấp thuận của Chánh án toà án nhân dân. Người bị xử phạt có thể nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân cấp trên xem xét lại nếu không đồng ý với quyết định tạm giam. Việc giam giữ sẽ không bị đình chỉ trong thời gian xem xét lại.
Điều 194 Trước khi một nhân chứng đưa ra lời khai, các thẩm phán phải hướng dẫn anh ta lời khai một cách trung thực và giải thích cho anh ta trách nhiệm pháp lý phải chịu đối với việc cố ý đưa ra lời khai sai sự thật hoặc che giấu bằng chứng phạm tội. Công tố viên, các bên, người bào chữa và đại diện tố tụng, với sự cho phép của chủ tọa phiên tòa, có thể thẩm vấn nhân chứng và người giám định. Trường hợp chủ tọa phiên tòa xét thấy bất kỳ câu hỏi nào không liên quan đến vụ án thì tạm dừng thẩm vấn.
Các thẩm phán có thể thẩm vấn các nhân chứng và chuyên gia chứng kiến.
Điều 195 Công tố viên và những người bào chữa phải đưa chứng cứ cho toà án để các bên nhận dạng; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng không có mặt tại phiên tòa, ý kiến ​​của người giám định không có mặt tại phiên tòa, biên bản xét hỏi và các tài liệu khác làm chứng cứ được đọc tại phiên tòa. Các thẩm phán sẽ lắng nghe ý kiến ​​của công tố viên, các bên, người bào chữa và đại diện tố tụng.
Điều 196 Trong phiên tòa, nếu hội đồng xét xử nghi ngờ về chứng cứ, thì có thể thông báo hoãn phiên tòa để tiến hành điều tra xác minh chứng cứ.
Khi tiến hành điều tra xác minh chứng cứ, Tòa án nhân dân có thể trưng cầu, khám nghiệm, niêm phong, thu giữ, giám định, trưng cầu, giám định.
Điều 197 Trong phiên tòa, các bên, người bào chữa và người đại diện tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập nhân chứng mới, thu thập chứng cứ mới, giám định mới và tiến hành thẩm vấn khác.
Kiểm sát viên, đương sự, người bào chữa và người đại diện tố tụng có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền thông báo cho những người có chuyên môn cụ thể trình bày quan điểm của họ về ý kiến ​​thẩm định của người chuyên môn đó.
Tòa án sẽ đưa ra quyết định có chấp nhận các yêu cầu nêu trên hay không.
Sự xuất hiện của những người có chuyên môn cụ thể trước Tòa án nhân dân như quy định tại khoản hai sẽ được điều chỉnh bởi các quy định áp dụng cho các chuyên gia.
Điều 198 Trong quá trình tố tụng tại tòa, tất cả các tình tiết và bằng chứng liên quan đến việc kết án và tuyên án vụ án sẽ được điều tra và tranh luận.
Khi được sự cho phép của chủ tọa phiên tòa, kiểm sát viên, đương sự, người bào chữa và người đại diện tố tụng có thể bày tỏ quan điểm của mình về chứng cứ, tình tiết của vụ án và có thể tranh luận với nhau.
Sau khi chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần tranh luận, bị cáo được phát biểu ý kiến ​​sau cùng.
Điều 199 Nếu người tham gia tố tụng phiên tòa hoặc người dự phiên tòa vi phạm trật tự phòng xử án thì chủ tọa phiên tòa sẽ cảnh cáo người đó ra khỏi phiên tòa. Nếu người nào không chấp hành thì có thể buộc chủ tọa phiên tòa đưa ra khỏi phòng xử án. Nếu vi phạm nghiêm trọng, người đó sẽ bị phạt không quá 1,000 CNY hoặc bị tạm giữ không quá 15 ngày. Việc phạt tiền hoặc giam giữ phải được chủ tọa tòa án phê chuẩn. Nếu người bị xử phạt không hài lòng với quyết định phạt tiền, tạm giam thì có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân cấp trên xem xét lại. Tuy nhiên, việc chấp hành hình phạt hoặc tạm giam sẽ không bị đình chỉ trong thời gian xem xét lại.
Ai tụ tập đám đông để gây náo động hoặc buộc tội vào phòng xử án, hoặc làm nhục, vu khống, đe dọa hoặc đánh đập cán bộ tư pháp hoặc những người tham gia tố tụng, gây rối nghiêm trọng trật tự phòng xử án, mà cấu thành tội phạm, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trách nhiệm theo luật định.
Điều 200 Sau khi bị cáo phát biểu sau cùng, chủ tọa phiên tòa tuyên bố hoãn xử và hội đồng tập thể tiến hành nghị án, trên cơ sở các tình tiết, chứng cứ đã xác lập và phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan, trong số các phán đoán sau:
(1) Nếu tình tiết của vụ án rõ ràng, bằng chứng đáng tin cậy và đầy đủ, bị cáo bị kết tội theo quy định của pháp luật thì bị cáo sẽ bị tuyên có tội tương ứng;
(2) nếu bị cáo được cho là vô tội theo quy định của pháp luật, thì họ sẽ được tuyên bố là vô tội theo quy định của pháp luật;
(3) nếu bằng chứng không đủ và do đó bị cáo không thể bị kết tội, họ sẽ được tuyên vô tội tương ứng với lý do là bằng chứng không đủ và lời buộc tội không có căn cứ.
Điều 201 Khi tuyên án đối với trường hợp nhận tội và chấp nhận hình phạt, nhìn chung Toà án nhân dân phải áp dụng kiến ​​nghị về tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân đề nghị theo quy định của pháp luật, trừ những trường hợp sau đây:
(1) khi hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm hoặc không phải chịu trách nhiệm hình sự;
(2) khi bị cáo nhận tội và chấp nhận hình phạt đối với ý chí của mình;
(3) khi bị cáo phủ nhận các tình tiết của tội phạm mà họ bị buộc tội;
(4) khi hành vi phạm tội bị truy tố không phù hợp với tội danh được phát hiện trong phiên tòa; hoặc là
(5) các tình tiết khác có thể ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án một cách công bằng.
Trường hợp Tòa án nhân dân cho rằng việc tuyên án rõ ràng là không phù hợp hoặc bị cáo, người bào chữa không đồng ý với đề nghị tuyên án thì Viện kiểm sát nhân dân có thể điều chỉnh lại đề nghị tuyên án. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân không điều chỉnh đề nghị tuyên án hoặc sau khi điều chỉnh mà đề nghị tuyên án vẫn không phù hợp thì Toà án nhân dân tuyên án theo quy định của pháp luật.
Điều 202 Trong mọi trường hợp, bản án phải được tuyên bố công khai.
Trường hợp bản án được tuyên tại Tòa án thì Tòa án nhân dân có liên quan phải tống đạt bản án đối với các đương sự và Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố trong thời hạn năm ngày. Trường hợp bản án phải được tuyên vào một ngày ấn định trong tương lai thì Toà án nhân dân tống đạt bản án đối với các đương sự và Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố ngay sau khi công bố bản án. Phán quyết bằng văn bản cũng sẽ được tống đạt cho người bào chữa và người đại diện tố tụng.
Điều 203 Bản án phải có chữ ký của Thẩm phán và Thư ký Toà án, ghi rõ thời hạn và Toà án kháng cáo.
Điều 204 Trong quá trình xét xử, phiên tòa có thể bị hoãn nếu xảy ra một trong các tình huống sau đây ảnh hưởng đến việc tiến hành phiên tòa:
(1) nếu cần thiết phải triệu tập nhân chứng mới, thu thập bằng chứng vật chất mới, thực hiện đánh giá giám định mới hoặc tổ chức một cuộc điều tra khác;
(2) nếu Kiểm sát viên nhận thấy rằng một vụ án đã khởi tố công khai cần phải điều tra bổ sung thì họ đưa ra đề xuất về việc đó; hoặc là;
(3) nếu phiên tòa không thể tiến hành vì đơn xin rút lại.
Điều 205 Nếu việc xét xử vụ án bị hoãn theo quy định tại điểm (2) Điều 204 của Luật thì Viện kiểm sát nhân dân phải hoàn thành việc điều tra bổ sung trong thời hạn một tháng.
Điều 206 Trong quá trình xét xử, việc xét xử vụ án có thể bị đình chỉ mà vụ án không thể xét xử tiếp trong một thời gian tương đối dài do một trong các trường hợp sau đây:
(1) bị cáo bị ốm nặng nên không thể ra trước tòa;
(2) bị cáo đã bỏ trốn;
(3) công tố viên riêng không thể ra trước tòa do bệnh nặng, nhưng đã không ủy thác cho một đại diện tố tụng ra trước tòa; hoặc là;
(4) bất khả kháng.
Phiên tòa sẽ tiếp tục sau khi các nguyên nhân đình chỉ hết hiệu lực. Thời hạn tạm đình chỉ không được tính vào thời hạn thử thách.
Điều 207 Thư ký Tòa án lập biên bản toàn bộ diễn biến phiên tòa do Chủ tọa phiên tòa xem xét, sau đó Chủ tọa phiên tòa và Thư ký phiên tòa ký tên.
Phần biên bản phòng xử án bao gồm lời khai của các nhân chứng sẽ được đọc trước tòa hoặc đưa cho các nhân chứng đọc. Sau khi người làm chứng xác nhận rằng biên bản không có sai sót, họ phải ký tên hoặc đóng dấu vào biên bản đó.
Biên bản phòng xử án sẽ được giao cho các bên đọc hoặc sẽ được đọc cho họ. Trường hợp một bên cho rằng có thiếu sót hoặc sai sót trong hồ sơ, họ có thể yêu cầu bổ sung hoặc sửa chữa. Sau khi các bên xác nhận rằng hồ sơ không có sai sót, họ sẽ ký tên hoặc đóng dấu vào hồ sơ đó.
Điều 208 Tòa án nhân dân sẽ tuyên bản án về vụ án bị truy tố công khai trong thời hạn hai tháng hoặc chậm nhất là ba tháng, kể từ khi thụ lý. Đối với vụ án liên quan đến tội phạm bị trừng phạt tử hình hoặc vụ án dân sự ngẫu nhiên thuộc bất kỳ trường hợp nào quy định tại Điều 158 của Luật này, thời hạn có thể được kéo dài thêm ba tháng khi có sự chấp thuận của Tòa án nhân dân cấp trên. Trong trường hợp đặc biệt cần kéo dài thêm thời hạn thì phải làm đơn gửi Tòa án nhân dân tối cao để được chấp thuận.
Trường hợp thay đổi thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với vụ án thì thời hạn giải quyết vụ án được tính từ ngày Tòa án nhân dân khác thụ lý vụ án.
Đối với vụ án Viện kiểm sát nhân dân phải điều tra bổ sung thì Tòa án nhân dân bắt đầu tính lại thời gian thụ lý sau khi kết thúc điều tra bổ sung và chuyển vụ án.
Điều 209 Viện kiểm sát nhân dân nếu phát hiện thấy trong việc giải quyết vụ án mà toà án nhân dân vi phạm thủ tục tố tụng do pháp luật quy định thì có quyền kiến ​​nghị với toà án nhân dân để xử lý vụ án đó.
Phần 2 Các trường hợp truy tố riêng
Điều 210 Các trường hợp truy tố riêng bao gồm:
(1) các trường hợp chỉ được giải quyết khi có khiếu nại;
(2) các trường hợp mà nạn nhân có bằng chứng để chứng minh rằng đó là các vụ án hình sự nhỏ; và
(3) những vụ án mà người bị hại có chứng cứ chứng minh thì bị cáo phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật vì hành vi của họ đã xâm phạm đến quyền nhân thân, tài sản của người bị hại, trong khi cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân thì không. truy cứu trách nhiệm hình sự các bị can.
Điều 211 Sau khi xét xử vụ án riêng, Toà án nhân dân xử lý vụ án đó theo một trong các cách xử sự sau đây tùy vào các tình huống khác nhau:
(1) nếu tình tiết của tội phạm rõ ràng và chứng cứ đầy đủ, vụ án sẽ được xét xử tại phiên toà; hoặc là
(2) Trong trường hợp truy tố riêng mà thiếu bằng chứng phạm tội, nếu công tố viên riêng không thể đưa ra bằng chứng bổ sung, thì tòa án sẽ thuyết phục họ rút truy tố hoặc ra quyết định bác bỏ truy tố riêng.
Trường hợp công tố viên riêng đã được tống đạt hai lần theo giấy triệu tập theo quy định của pháp luật, từ chối có mặt tại tòa mà không có lý do chính đáng hoặc rút khỏi phiên tòa mà không được sự cho phép của tòa án, thì vụ án có thể được xem xét rút lại bởi công tố viên riêng.
Trong quá trình xét xử vụ án mà Thẩm phán có nghi ngờ về chứng cứ và xét thấy cần phải điều tra để xác minh chứng cứ thì áp dụng quy định tại Điều 196 của Bộ luật.
Điều 212 Tòa án nhân dân có thể hòa giải các vụ việc truy tố riêng. Công tố viên riêng có thể giải quyết với bị cáo hoặc tự mình rút lại truy tố riêng trước khi công bố bản án. Tuy nhiên, hòa giải không được áp dụng cho các trường hợp quy định tại điểm (3) của Điều 210 của Hợp đồng này.
Trường hợp bị cáo bị tạm giam thì thời hạn Tòa án nhân dân xét xử vụ án riêng được quy định tại khoản một và khoản hai Điều 208 của Nghị định này. Trong trường hợp bị cáo chưa bị tạm giam, bản án của vụ án truy tố riêng sẽ được tuyên trong vòng sáu tháng kể từ khi thụ lý vụ án.
Điều 213 Trong quá trình tố tụng, bị cáo trong vụ án bị truy tố riêng có thể đưa ra yêu cầu phản tố đối với công tố viên riêng. Các quy định điều chỉnh việc truy tố tư nhân sẽ được áp dụng cho các yêu cầu phản tố.
Phần 3 Thủ tục Tóm tắt
Điều 214 Vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp sơ cấp có thể được xét xử theo thủ tục rút gọn nếu có đủ các điều kiện sau đây:
(1) các tình tiết của vụ án rõ ràng, bằng chứng cụ thể và đầy đủ;
(2) bị cáo nhận tội của mình và không phản đối về các tình tiết của tội mà mình bị buộc tội; và
(3) bị đơn không phản đối việc áp dụng các thủ tục tóm tắt.
Viện kiểm sát nhân dân có thể đề nghị Tòa án nhân dân áp dụng thủ tục rút gọn khi khởi tố công khai.
Điều 215 Các thủ tục tóm tắt không được áp dụng trong bất kỳ trường hợp nào sau đây:
(1) bị cáo là người khiếm thị, khiếm thính, khiếm thị hoặc là người bị tâm thần chưa hoàn toàn mất hết khả năng nhận biết hoặc điều khiển hành vi của mình;
(2) khi vụ việc có tác động xã hội lớn;
(3) khi một số đồng phạm trong vụ án đồng phạm không nhận tội hoặc phản đối việc áp dụng thủ tục rút gọn; hoặc là
(4) khi có những trường hợp khác mà thủ tục tóm tắt không thích hợp.
Điều 216 Đối với trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn và bị cáo bị phạt tù có thời hạn không quá ba năm hoặc hình phạt nhẹ hơn, thì tòa án nhân dân có thể thành lập hội đồng tập thể hoặc có một thẩm phán duy nhất để xét xử vụ án. ; trường hợp bị cáo bị phạt tù có thời hạn trên ba năm thì Tòa án nhân dân thành lập Hội đồng tập thể để xét xử vụ án.
Đối với vụ án truy tố xét xử theo thủ tục rút gọn thì Viện kiểm sát nhân dân có liên quan cử người ra trình diện trước Tòa án.
Điều 217 Đối với một vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn, thẩm phán sẽ hỏi bị cáo về ý kiến ​​của họ về các tình tiết của tội phạm mà họ bị buộc tội, thông báo cho bị cáo về các quy định pháp luật về việc áp dụng thủ tục rút gọn, và xác nhận xem bị đơn có đồng ý với việc áp dụng các thủ tục tóm tắt hay không.
Điều 218 Đối với một vụ án được xét xử theo thủ tục tóm tắt, bị cáo và người bào chữa của họ, với sự cho phép của các thẩm phán, có thể tranh luận với công tố viên công, hoặc công tố viên riêng và đại diện tố tụng của họ.
Điều 219 Các vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn không phải tuân theo các quy định về tố tụng tại Mục 1 Chương này về thời hạn tống đạt, hỏi cung bị cáo, xét hỏi nhân chứng, chuyên gia, cung cấp chứng cứ, tranh luận tại tòa, với điều kiện là Tòa án nhân dân xét xử bản án cuối cùng. của các bị cáo trước khi tuyên án.
Điều 220 Tòa án nhân dân xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày thụ lý. Nếu bị cáo bị phạt tù có thời hạn trên ba năm, thì thời hạn có thể được kéo dài đến một tháng rưỡi.
Điều 221 Nếu trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án nhân dân phát hiện thủ tục rút gọn không phù hợp với vụ án thì Tòa án nhân dân xét xử lại theo quy định tại Mục 1 hoặc Mục 2 Chương này.
Phần 4 Thủ tục Nhanh chóng
Điều 222 Đối với vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân sơ cấp, có thể bị phạt tù có thời hạn không quá ba năm hoặc hình phạt nhẹ hơn, nếu sự việc rõ ràng, chứng cứ có thật, đầy đủ, bị cáo nhận tội và đồng ý với việc áp dụng các thủ tục nhanh, các thủ tục nhanh có thể được áp dụng, và trường hợp đó sẽ chỉ được xét xử bởi một thẩm phán.
Viện kiểm sát nhân dân khởi tố có quyền kiến ​​nghị Tòa án nhân dân áp dụng thủ tục khẩn cấp.
Điều 223 Trong bất kỳ trường hợp nào sau đây, các thủ tục nhanh sẽ không được áp dụng:
(1) bị cáo là người khiếm thị, khiếm thính, khiếm thị hoặc là người bị tâm thần chưa hoàn toàn mất hết khả năng nhận biết hoặc điều khiển hành vi của mình;
(2) nơi bị cáo là trẻ vị thành niên;
(3) khi vụ việc có tác động xã hội lớn;
(4) khi một số đồng phạm trong vụ án đồng phạm có phản đối về các tình tiết của tội phạm mà họ bị buộc tội, cáo buộc, đề nghị tuyên án hoặc áp dụng các thủ tục nhanh chóng;
(5) khi bị đơn và người bị hại hoặc người đại diện tố tụng của họ không đạt được thỏa thuận hòa giải hoặc giải quyết về việc kiện dân sự ngẫu nhiên đòi bồi thường; hoặc là
(6) các trường hợp khác mà các thủ tục nhanh không được áp dụng.
Điều 224 Việc xét xử vụ án theo thủ tục nhanh sẽ không tuân theo các quy định tại Mục 1 của Chương này về thời hạn tống đạt, và việc điều tra và tranh luận tại tòa án thường không được tiến hành. Tuy nhiên, trước khi tuyên án, ý kiến ​​của người bào chữa và ý kiến ​​cuối cùng của bị cáo sẽ được nghe.
Đối với một vụ án được xét xử theo thủ tục tuyên án nhanh, bản án sẽ được tuyên trước tòa.
Điều 225 Đối với vụ án áp dụng thủ tục giải quyết nhanh thì Toà án nhân dân kết luận trong thời hạn mười ngày kể từ ngày thụ lý; trường hợp có thể bị phạt tù có thời hạn trên một năm, thì thời hạn kết thúc có thể được kéo dài đến 15 ngày.
Điều 226 Trong quá trình xét xử, Tòa án nhân dân xét thấy hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm hoặc không phải chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận tội và chấp nhận hình phạt trái với ý chí của mình, hoặc bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự. bị cáo phủ nhận các tình tiết phạm tội mà mình bị buộc tội hoặc các trường hợp khác mà thủ tục xúc tiến không áp dụng được, vụ án sẽ được xét xử lại theo quy định tại Mục 1 hoặc Mục 3 của Chương này.
Chương III Thủ tục sơ thẩm
Điều 227 Nếu bị cáo, công tố viên riêng hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối chấp nhận bản án, lệnh sơ thẩm của Tòa án nhân dân địa phương ở bất kỳ cấp nào thì họ có quyền kháng cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng lên Tòa án nhân dân ở lần tiếp theo. mức cao hơn. Người bào chữa hoặc người thân của bị cáo có thể nộp đơn kháng cáo với sự đồng ý của bị đơn.
Một bên trong vụ kiện dân sự ngẫu nhiên hoặc người đại diện hợp pháp của họ có thể nộp đơn kháng cáo phần đó của bản án hoặc lệnh sơ thẩm của tòa án nhân dân địa phương ở bất kỳ cấp nào giải quyết vụ việc dân sự ngẫu nhiên.
Bị cáo sẽ không bị tước quyền kháng cáo với bất kỳ lý do gì.
Điều 228 Viện kiểm sát nhân dân địa phương các cấp xét thấy bản án, lệnh sơ thẩm của Tòa án nhân dân cùng cấp có sai sót thì phải kháng nghị lên Tòa án nhân dân cấp trên.
Điều 229 Trong trường hợp người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ không chấp nhận bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân địa phương ở bất kỳ cấp nào thì trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được bản án, họ có quyền yêu cầu viện kiểm sát nhân dân kháng nghị. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp, Viện kiểm sát nhân dân quyết định có kháng nghị hay không và trả lời.
Điều 230 Thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án là mười ngày và thời hạn kháng cáo, kháng nghị lệnh là năm ngày; thời hạn được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc lệnh bằng văn bản.
Điều 231 Trường hợp bị đơn, công tố viên riêng hoặc nguyên đơn, bị đơn trong một vụ kiện dân sự tình cờ nộp đơn kháng cáo thông qua tòa án nhân dân đã xét xử vụ án ban đầu thì tòa án nhân dân trong thời hạn ba ngày phải chuyển đơn kháng cáo cùng với hồ sơ vụ án và chứng cứ trước toà án nhân dân cấp trên; đồng thời chuyển bản sao đơn kháng cáo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cho bên kia.
Nếu bị đơn, kiểm sát viên riêng hoặc nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự tình cờ nộp đơn kháng cáo trực tiếp đến toà án nhân dân cấp sơ thẩm thì trong thời hạn ba ngày toà án nhân dân phải chuyển đơn kháng cáo đến toà án nhân dân đã xét xử sơ thẩm vụ án. để giao cho viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cho bên kia.
Điều 232 Viện kiểm sát nhân dân địa phương kháng nghị bản án, lệnh sơ thẩm của Tòa án nhân dân cùng cấp thì phải có văn bản kháng nghị thông qua Tòa án nhân dân đã xét xử vụ án ban đầu và gửi bản sao kháng nghị cho Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Tòa án nhân dân đã xét xử vụ án lần đầu chuyển đơn kháng nghị kèm theo hồ sơ, chứng cứ cho Tòa án nhân dân cấp trên và chuyển bản sao đơn kháng nghị cho các bên.
Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cấp trên xét thấy kháng nghị không phù hợp thì có quyền rút kháng nghị của Tòa án nhân dân cùng cấp và thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới tiếp theo.
Điều 233 Toà án nhân dân cấp sơ thẩm xét lại toàn bộ các tình tiết đã xác định và việc áp dụng pháp luật trong bản án sơ thẩm, không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo, kháng nghị.
Nếu chỉ có một số bị cáo kháng cáo trong vụ án đồng phạm thì vụ án vẫn được xem xét, xử lý toàn bộ.
Điều 234 Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm thành lập Hội đồng tập thể và bắt đầu phiên tòa xét xử những vụ án sau đây:
(1) trường hợp kháng cáo phúc thẩm trong đó bị cáo, công tố viên riêng và đại diện tố tụng của họ có phản đối về các sự kiện hoặc bằng chứng được xác định trong phiên sơ thẩm và những phản đối có thể ảnh hưởng đến việc kết án và tuyên án;
(2) một vụ án phúc thẩm kháng cáo, trong đó bị cáo bị kết án tử hình;
(3) án phúc thẩm bị viện kiểm sát nhân dân kháng nghị; hoặc là
(4) vụ án phúc thẩm thuộc các trường hợp khác cần phải xét xử tại các phiên toà.
Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét hỏi bị cáo, hỏi ý kiến ​​các đương sự, người bào chữa, người đại diện tố tụng khi quyết định không tổ chức phiên tòa xét xử vụ án.
Khi Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm mở phiên tòa xét xử vụ án có kháng cáo, kháng nghị thì có thể thực hiện tại nơi xảy ra vụ án hoặc tại nơi có Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm vụ án.
Điều 235 Đối với vụ án bị Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị hoặc vụ án bị Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm tại phiên tòa thì Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp cử người tham gia phiên tòa. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm sau khi xác định bắt đầu phiên tòa xét xử vụ án thì thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân xem xét hồ sơ vụ án và trong thời hạn một tháng phải thẩm định xong. Thời gian Viện kiểm sát nhân dân xem xét hồ sơ vụ án không tính vào thời hạn xét xử.
Điều 236 Sau khi xét xử vụ án có kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xử lý theo một trong các cách xử sự sau đây tùy theo các tình huống:
(1) Nếu bản án ban đầu là đúng trong việc xác định sự việc và áp dụng pháp luật và phù hợp trong việc tuyên án, thì tòa án nhân dân sẽ ra lệnh bác kháng cáo, kháng nghị và khẳng định bản án ban đầu.
(2) Nếu bản án ban đầu không có sai sót trong việc xác định tình tiết nhưng không đúng pháp luật hoặc không phù hợp trong việc tuyên án thì tòa án nhân dân sẽ sửa lại bản án.
(3) Nếu các tình tiết trong bản án ban đầu không rõ ràng hoặc không đủ chứng cứ thì tòa án nhân dân có thể sửa lại bản án sau khi đã xác minh rõ sự việc hoặc có thể hủy bản án ban đầu và chuyển vụ án cho tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm lại. .
Trường hợp Toà án nhân dân cấp nguyên đã ra bản án xét xử vụ án theo quy định tại điểm (3) khoản trên, nếu bị đơn kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị thì Toà án nhân dân cấp sơ thẩm kháng nghị. bản án, quyết định theo quy định của pháp luật và không chuyển vụ án cho tòa án nhân dân ban đầu để xét xử mới.
Điều 237 Khi xét xử vụ án kháng cáo do bị cáo hoặc người đại diện theo luật định, người bào chữa hoặc người thân thích của họ, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm không được tăng nặng hình phạt đối với bị cáo. Trường hợp vụ án được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm chuyển lên Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử mới, trừ trường hợp có tình tiết mới của tội phạm và Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố bổ sung thì Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm không tăng nặng hình phạt đối với bị cáo. .
Hạn chế nêu ở khoản trên sẽ không áp dụng đối với các vụ án do viện kiểm sát nhân dân kháng nghị hoặc các vụ án do công tố viên tư kháng nghị.
Điều 238 Trường hợp Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm phát hiện Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật về một trong những cách sau đây thì tuyên hủy bản án gốc và chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm. nó để tái thẩm:
(1) vi phạm các quy định của Pháp luật về xét xử công khai;
(2) vi phạm hệ thống rút tiền;
(3) tước bỏ quyền tranh tụng của các bên theo quy định của pháp luật hoặc hạn chế, những quyền đó, có thể cản trở sự công bằng của xét xử;
(4) hình thành một tổ chức tư pháp bất hợp pháp; hoặc là
(5) các vi phạm khác đối với các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định có thể cản trở sự công bằng của phiên tòa.
Điều 239 Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm một vụ án sẽ thành lập Hội đồng tập thể mới đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Đối với bản án được đưa ra sau khi tái thẩm, có thể nộp đơn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 227, 228 hoặc 229 của Luật.
Điều 240 Sau khi toà án nhân dân cấp sơ thẩm xem xét kháng cáo, kháng nghị đối với lệnh sơ thẩm thì ra lệnh bác kháng cáo, kháng nghị hoặc huỷ bỏ hoặc sửa lại lệnh ban đầu tương ứng với các quy định tại Điều 236, 238 hoặc 239 của Luật.
Điều 241 Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm vụ án được tính thời hạn xét xử lại vụ án mà Tòa án nhân dân sơ thẩm xét xử lại kể từ ngày thụ lý vụ án.
Điều 242 Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử các vụ án có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục sơ thẩm, đồng thời áp dụng các quy định tại Chương này.
Điều 243 Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm kết thúc việc xét xử vụ án có kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án bị cáo phạm tội bị tử hình hoặc vụ án dân sự ngẫu nhiên thuộc bất kỳ trường hợp nào nêu tại Điều 158 của Nghị định này, thì thời hạn có thể được kéo dài thêm hai tháng kể từ khi có sự chấp thuận hoặc quyết định của cấp cao. Tòa án cấp tỉnh, khu tự trị, đô thị trực thuộc Trung ương. Trong trường hợp cần gia hạn thêm trong những trường hợp đặc biệt, đơn phải được trình lên Tòa án nhân dân tối cao để phê duyệt.
Tòa án nhân dân tối cao quyết định thời hạn xét xử đối với những trường hợp có kháng cáo, kháng nghị được chấp nhận.
Điều 244 Mọi bản án, lệnh sơ thẩm và mọi bản án, lệnh của Tòa án nhân dân tối cao là chung thẩm.
Điều 245 Cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân có trách nhiệm cất giữ đúng tài sản, thành quả tích lũy được của bị can, bị cáo đã được niêm phong, thu giữ, phong tỏa để xác minh sau này, đồng thời lập bảng kê tài sản và các quả được cộng dồn, và chuyển tương tự với các trường hợp. Không một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể tự mình chiếm đoạt hoặc định đoạt tài sản hoặc thành quả tích lũy được. Tài sản hợp pháp của người bị thiệt hại phải được trả lại kịp thời cho người bị thiệt hại. Hàng lậu và các hàng hoá khác không thích hợp để bảo quản lâu dài sẽ được xử lý theo các quy định hiện hành của Nhà nước.
Bất kỳ đồ vật hữu hình nào được sử dụng làm bằng chứng sẽ được chuyển giao cùng một vụ án. Trong trường hợp vật hữu hình không phù hợp để chuyển giao thì danh sách, ảnh chụp hoặc tài liệu chứng cứ khác sẽ được chuyển giao cùng với vụ án.
Phán quyết của Tòa án nhân dân bao gồm việc xử lý tài sản, hoa quả tích lũy được đã được niêm phong, thu giữ, đông lạnh.
Sau khi bản án của Tòa án nhân dân có hiệu lực thi hành, cơ quan hữu quan có trách nhiệm xử lý tài sản, hoa quả tích lũy được đã được niêm phong, thu giữ, phong tỏa theo bản án. Toàn bộ tài sản, thành quả tích lũy được phải được giao nộp Kho bạc Nhà nước, trừ trường hợp trả lại cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Cán bộ tư pháp tham ô, chiếm đoạt, tiêu hủy tài sản, hoa quả tích lũy được mà không được niêm phong, thu giữ, phong tỏa thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Nếu không có tội phạm nào được cấu thành, viên chức tư pháp sẽ bị xử lý kỷ luật.
Chương IV Thủ tục xem xét lại bản án tử hình
Điều 246 Các bản án tử hình phải được Tòa án nhân dân tối cao phê chuẩn.
Điều 247 Trường hợp sơ thẩm mà Tòa án nhân dân trung cấp đã tuyên án tử hình mà bị cáo không kháng cáo thì Tòa án nhân dân cấp cao xem xét lại và trình Tòa án nhân dân tối cao phê chuẩn. Nếu Tòa án nhân dân cấp cao không đồng ý với mức án tử hình thì có thể đưa vụ án ra xét xử hoặc trả hồ sơ để xét xử lại.
Các trường hợp sơ thẩm đã tuyên án tử hình mà bị cáo không kháng cáo, các trường hợp sơ thẩm tuyên án tử hình đều trình Tòa án nhân dân tối cao phê chuẩn.
Điều 248 Trường hợp Tòa án nhân dân trung cấp đã tuyên án tử hình, đình chỉ thi hành hai năm thì phải được Tòa án nhân dân cấp cao phê chuẩn.
Điều 249 Việc phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đối với vụ án tử hình và Tòa án nhân dân cấp cao xét lại vụ án tử hình có đình chỉ thi hành do Hội đồng tập thể gồm ba Thẩm phán tiến hành.
Điều 250 Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn hình phạt tử hình khi xem xét lại vụ án có hình phạt tử hình. Nếu Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận bản án tử hình thì có thể xử lại vụ án để xét xử lại hoặc sửa bản án.
Điều 251 Khi xem xét vụ án liên quan đến bản án tử hình, Tòa án nhân dân tối cao sẽ thẩm vấn bị cáo và hỏi ý kiến ​​luật sư bào chữa nếu luật sư bào chữa yêu cầu.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể trình bày ý kiến ​​của mình với Tòa án nhân dân tối cao khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét lại vụ án có mức án tử hình. Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả xem xét vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chương V Thủ tục giám sát việc xét xử
Điều 252 Một bên hoặc người đại diện hợp pháp của họ hoặc người thân thích của họ có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân về bản án, lệnh đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên việc thi hành bản án, lệnh không bị đình chỉ.
Điều 253 Trong trường hợp đơn khởi kiện của đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích của họ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Tòa án nhân dân xét xử lại vụ án:
(1) khi có bằng chứng mới để chứng minh những sai sót trong các sự kiện được xác định trong bản án hoặc quyết định ban đầu, có thể ảnh hưởng đến việc kết án và tuyên án vụ án;
(2) khi bằng chứng làm cơ sở cho việc kết tội và tuyên án là không đáng tin cậy và không đủ, hoặc sẽ bị loại trừ theo quy định của pháp luật, hoặc khi bằng chứng chính xác lập các tình tiết của vụ án mâu thuẫn với nhau;
(3) khi bản án hoặc quyết định ban đầu có sai sót trong việc áp dụng pháp luật;
(4) khi vụ án được xét xử vi phạm thủ tục theo luật định, có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của phiên tòa; hoặc là
(5) khi thẩm phán phạm tội hối lộ và tham nhũng, thực hành thiên vị vì lợi ích cá nhân hoặc lách luật khi xét xử vụ án.
Điều 254 Trong trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân các cấp phát hiện có sai sót nhất định trong bản án, lệnh của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật về việc xác định tình tiết hoặc áp dụng pháp luật thì đưa ra ủy ban tư pháp. để xử lý.
Trường hợp Tòa án nhân dân tối cao phát hiện có sai sót trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp dưới hoặc Tòa án nhân dân cấp trên phát hiện có sai sót xác định trong bản án, lệnh của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật tại cấp dưới có quyền tự đưa vụ án ra xét xử hoặc có thể chỉ đạo Tòa án nhân dân cấp dưới xét xử lại.
Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp có sai sót nhất định hoặc Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phát hiện có sai sót trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp trên cấp dưới có quyền kháng nghị với Toà án nhân dân cùng cấp đối với bản án hoặc trình tự theo thủ tục kiểm sát xét xử.
Đối với vụ án do Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị thì Tòa án nhân dân đã thụ lý kháng nghị thành lập Hội đồng tập thể để xét xử lại; nếu căn cứ vào tình tiết mà nhận định ban đầu chưa rõ ràng hoặc chưa đủ chứng cứ thì có thể chỉ đạo Tòa án nhân dân cấp dưới xét xử lại vụ án.
Điều 255 Trường hợp Tòa án nhân dân cấp trên yêu cầu Tòa án nhân dân cấp dưới xét xử lại vụ án thì Tòa án nhân dân cấp dưới không phải Tòa án nhân dân cấp trên xét xử lại. Trường hợp Tòa án nhân dân gốc xét xử lại vụ án thích hợp hơn thì Tòa án nhân dân gốc có thể được ra lệnh xét xử lại vụ án.
Điều 256 Trong trường hợp vụ án được Tòa án nhân dân ban đầu xét xử lại theo thủ tục giám sát việc xét xử thì thành lập Hội đồng tập thể mới để xét xử lại. Trong trường hợp xét xử sơ thẩm thì việc tái thẩm được tiến hành theo thủ tục sơ thẩm, bản án, quyết định đã tuyên có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp vụ án, vụ án sơ thẩm đưa ra Tòa án nhân dân cấp trên xét xử thì việc tái thẩm được tiến hành theo thủ tục sơ thẩm và bản án, quyết định được đưa ra là bản án, quyết định sơ thẩm.
Đối với vụ án do Tòa án nhân dân xét xử lại tại phiên tòa thì Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp cử người tham gia phiên tòa.
Điều 257 Trong trường hợp cần áp dụng biện pháp bắt buộc đối với bị cáo trong vụ án mà Tòa án nhân dân đã quyết định xét xử lại thì Tòa án nhân dân ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc theo quy định của pháp luật. Trường hợp cần phải áp dụng biện pháp bắt buộc đối với bị cáo mà Viện kiểm sát nhân dân đã kháng nghị thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc theo quy định của pháp luật.
Khi xét xử vụ án theo thủ tục kiểm sát xét xử, Tòa án nhân dân có quyền quyết định đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định ban đầu.
Điều 258 Đối với vụ án do Tòa án nhân dân xét xử lại theo thủ tục kiểm sát xét xử thì kết thúc phiên tòa trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc ngày quyết định được thực hiện để nó thử lại trường hợp. Trường hợp cần gia hạn thì không quá sáu tháng.
Quy định tại khoản trên được áp dụng về thời hạn xét xử vụ án bị kháng nghị đã được Tòa án nhân dân thụ lý và được xét xử theo thủ tục kiểm sát xét xử. Trường hợp cần chỉ đạo Tòa án nhân dân cấp dưới xét xử lại vụ án đã bị kháng nghị thì quyết định có hiệu lực thi hành trong thời hạn một tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án bị kháng nghị; quy định tại khoản trên được áp dụng về thời hạn xét xử vụ án của Tòa án nhân dân cấp dưới.
Thực hiện Phần bốn
Điều 259 Các bản án, quyết định sẽ được thi hành sau khi có hiệu lực pháp luật.
Các bản án, quyết định sau đây có hiệu lực pháp luật:
(1) Bản án và quyết định không có kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định;
(2) các bản án và quyết định cuối cùng; và
(3) bản án tử hình được Tòa án nhân dân tối cao phê chuẩn và bản án tử hình có thời hạn hai năm tạm hoãn thi hành đã được Tòa án nhân dân cấp cao phê chuẩn.
Điều 260 Nếu bị cáo đang bị tạm giữ được Tòa án nhân dân sơ thẩm tuyên không có tội hoặc miễn hình phạt thì được trả tự do ngay sau khi tuyên án.
Điều 261 Khi bản án tử hình được Tòa án nhân dân tối cao tuyên hoặc phê chuẩn thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ký và ra lệnh thi hành án tử hình.
Trường hợp tội phạm bị kết án tử hình được hoãn thi hành án hai năm không phạm tội cố ý trong thời gian được tạm hoãn thi hành án và hình phạt của họ cần được giảm nhẹ theo quy định của pháp luật khi hết thời hạn đó thì cơ quan thi hành án nộp đơn. văn bản kiến ​​nghị lên tòa án nhân dân cấp cao để có phán quyết; nếu có bằng chứng xác minh cho thấy tội phạm cố ý phạm tội và phải thi hành án tử hình thì Tòa án nhân dân cấp cao trình Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phê chuẩn.
Điều 262 Sau khi nhận được lệnh của Tòa án nhân dân tối cao thi hành án tử hình, Tòa án nhân dân cấp dưới phải giao bản án để thi hành án trong thời hạn bảy ngày. Tuy nhiên, nếu có một trong các điều kiện sau đây thì Tòa án nhân dân cấp dưới tạm dừng thi hành và báo cáo ngay với Tòa án nhân dân tối cao để quyết định:
(1) nếu trước khi thi hành án bị phát hiện rằng bản án có thể có sai sót;
(2) nếu trước khi thi hành án, tội phạm khai ra các tình tiết tội phạm chính hoặc gây ra những việc làm đáng kể khác, thì bản án có thể cần được sửa lại; hoặc là
(3) nếu tội phạm đang mang thai.
Trường hợp lý do nêu tại điểm (1) hoặc (2) khoản trên đã biến mất, thì bản án chỉ được thi hành sau khi có tờ trình do Chủ tịch Tòa án nhân dân tối cao ký ban hành. một lệnh thi hành án tử hình khác. Nếu việc thi hành bị đình chỉ vì lý do nêu tại điểm (3) của khoản trên, thì một yêu cầu sẽ được đệ trình lên Tòa án nhân dân tối cao để thay đổi bản án theo luật định.
Điều 263 Trước khi Tòa án nhân dân tuyên án tử hình phải thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp cử cán bộ kiểm sát việc thi hành án.
Bản án tử hình sẽ được thực hiện bằng các biện pháp như bắn hoặc tiêm thuốc.
Bản án tử hình có thể được thi hành tại nơi thi hành án hoặc tại một nơi giam giữ được chỉ định.
Cán bộ tư pháp chỉ đạo thi hành án xác minh nhân thân của tội phạm, hỏi tội phạm có lời hay không, sau đó giao tội phạm cho đao phủ để thi hành án tử hình. Nếu trước khi thi hành phát hiện có sai sót thì đình chỉ thi hành và báo cáo Tòa án nhân dân tối cao để xin lệnh.
Việc thi hành án tử hình sẽ được công bố nhưng không được tổ chức công khai.
Sau khi thi hành án tử hình, Thư ký Tòa án tại hiện trường phải lập biên bản về việc đó. Tòa án nhân dân đã thi hành án tử hình báo cáo về việc thi hành án cho Tòa án nhân dân tối cao.
Sau khi thi hành án tử hình, Tòa án nhân dân đã tuyên án tử hình phải thông báo cho người nhà của tội phạm.
Điều 264 Trường hợp giao tội phạm để thi hành hình phạt, thì tòa án nhân dân nơi giao phạm tội phải tống đạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cơ quan công an, trại giam hoặc bất kỳ cơ quan thi hành nào khác trong vòng mười ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực.
Người phạm tội bị kết án tử hình có thời hạn hai năm hoặc tù chung thân hoặc tù có thời hạn, theo quy định của pháp luật, cơ quan công an sẽ giao cho trại giam để thi hành hình phạt. Đối với tội phạm bị xử phạt tù có thời hạn, nếu thời hạn chấp hành án còn lại chưa quá ba tháng mà người đó phải chấp hành hình phạt thì người đó phải chấp hành hình phạt tại trại tạm giam. Đối với một tội phạm bị tạm giữ hình sự, tội phạm phải chấp hành bản án của mình dưới sự giám sát của cơ quan công an có liên quan.
Đối với người chưa thành niên phạm pháp, sẽ bị xử lý hình sự trong trường giáo dưỡng dành cho người chưa thành niên phạm pháp.
Cơ quan thi hành án phải tạm giữ tội phạm ngay lập tức và thông báo cho người nhà của tội phạm.
Người bị kết án phạt tù có thời hạn hoặc bị tạm giữ hình sự khi chấp hành xong bản án được cơ quan thi hành án cấp giấy chứng nhận trả tự do.
Điều 265 Phạm nhân bị phạt tù có thời hạn hoặc bị tạm giữ hình sự có thể được tạm chấp hành hình phạt ngoài trại giam trong một số trường hợp sau đây:
(1) khi tội phạm bị ốm nặng và cần được tại ngoại để điều trị;
(2) nơi tội phạm đang trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú; hoặc là
(3) khi tội phạm không thể tự chăm sóc bản thân trong cuộc sống hàng ngày, và việc chấp hành án tạm thời của anh ta / cô ta bên ngoài nhà tù sẽ không gây nguy hiểm cho an ninh công cộng.
Trong trường hợp một tội phạm bị kết án tù chung thân thuộc trường hợp quy định tại điểm (2) của khoản trên, tội phạm có thể được phép tạm thời chấp hành bản án của mình bên ngoài nhà tù.
Tội phạm sẽ không được tại ngoại để điều trị y tế nếu việc trả tự do đó có thể gây nguy hiểm cho an ninh công cộng hoặc nếu tội phạm có thể tự gây thương tích hoặc bị thương.
Trường hợp phạm nhân bị bệnh nặng phải được tại ngoại để chữa bệnh thì bệnh viện do chính quyền nhân dân cấp tỉnh chỉ định tiến hành chẩn đoán và cấp giấy tờ chứng minh.
Trước khi phạm nhân bắt đầu chấp hành án thì do Tòa án nhân dân quyết định tạm giữ hình phạt ngoài trại giam, nơi giao cho phạm nhân đó để chấp hành án. Sau khi phạm nhân được giao cho cơ quan có thẩm quyền chấp hành án, trại giam, trại tạm giam có ý kiến ​​bằng văn bản về việc tạm giữ hình sự ngoài trại giam và báo cáo cơ quan quản lý trại giam cấp trên trở lên. cấp tỉnh hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh trở lên cấp thành phố có huyện phê duyệt.
Điều 266 Trại giam, trại tạm giam có ý kiến ​​bằng văn bản về việc chấp hành án tạm thời ngoài trại giam phải sao gửi văn bản lấy ý kiến ​​cho Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân có quyền trình cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê chuẩn ý kiến ​​bằng văn bản.
Điều 267 Cơ quan quyết định hoặc phê chuẩn việc chấp hành án tạm thời ngoài trại giam phải sao cho Viện kiểm sát nhân dân có liên quan quyết định chấp hành án tạm thời ngoài trại giam. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân xét thấy việc chấp hành án tạm thời ngoài trại giam là không phù hợp thì trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được thông báo, Viện kiểm sát nhân dân có ý kiến ​​bằng văn bản gửi cơ quan đã quyết định hoặc phê chuẩn việc chấp hành án tạm thời ngoài trại giam. Khi nhận được ý kiến ​​bằng văn bản của Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan này phải khẩn trương xem xét lại quyết định.
Điều 268 Trường hợp phạm nhân được phép tạm thời chấp hành hình phạt ngoài trại giam thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì người đó sẽ được đưa vào trại giam kịp thời:
(1) khi tội phạm bị phát hiện không đáp ứng các điều kiện để được chấp hành hình phạt tạm thời ngoài trại giam;
(2) khi phạm nhân vi phạm nghiêm trọng các quy định về giám sát và quản lý việc thi hành án tạm thời ngoài trại giam; hoặc là
(3) không còn trường hợp phạm tội được tạm chấp hành hình phạt ngoài trại giam và tội phạm chưa hết thời hạn chấp hành án.
Trường hợp phạm nhân đã được Tòa án nhân dân cho phép chấp hành án tạm thời ngoài trại giam, thì Tòa án nhân dân ra quyết định và tống đạt các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về cơ quan công an, trại giam hoặc cơ quan khác. thực thi các cơ quan liên quan.
Trường hợp phạm nhân không đủ điều kiện thi hành án tạm thời ngoài trại giam được phép thực hiện bằng hối lộ hoặc các phương tiện trái pháp luật khác thì thời gian chấp hành án ngoài trại giam sẽ không được tính vào thời hạn chấp hành án của tội phạm. kết án. Trường hợp phạm nhân trốn trong thời gian tạm chấp hành án ngoài trại giam thì thời hạn trốn không được tính vào thời hạn chấp hành án.
Trường hợp phạm nhân chết trong thời gian tạm giữ án ngoài trại giam thì cơ quan thi hành án phải thông báo kịp thời cho trại giam, nhà tạm giữ.
Điều 269 Trong trường hợp một tội phạm bị kết án giám sát công khai, được hưởng án treo, đang được tạm tha hoặc chấp hành hình phạt tạm thời ngoài trại giam, theo quy định của pháp luật, người phạm tội phải chịu sự cải tạo của cộng đồng do cộng đồng cải tạo. cơ quan.
Điều 270 Việc tước quyền chính trị của tội phạm sẽ do cơ quan an ninh công cộng thực thi. Khi hết thời hạn thi hành án, cơ quan thi hành án có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho tội phạm và người sử dụng lao động hoặc tổ chức cấp cơ sở nơi tội phạm cư trú.
Điều 271 Trường hợp người bị kết án phạt tiền không nộp tiền phạt trong thời hạn thì Toà án nhân dân buộc người đó phải nộp tiền phạt. Trong trường hợp tội phạm thực sự gặp khó khăn trong việc thanh toán vì anh ta / cô ta đã trải qua một thảm họa không thể cưỡng lại được, thì một lệnh có thể được đưa ra để giảm tiền phạt hoặc miễn cho anh ta / cô ta thanh toán.
Điều 272 Tất cả các bản án tịch thu tài sản, dù là hình phạt bổ sung hay hình phạt độc lập, đều do Toà án nhân dân thi hành; khi cần thiết, Toà án nhân dân có thể cùng với cơ quan công an thi hành bản án.
Điều 273 Trường hợp người phạm tội lại phạm tội khi đang chấp hành án hoặc chưa biết hành vi phạm tội tại thời điểm thi hành án thì chuyển cơ quan thi hành án sang Viện kiểm sát nhân dân để xử lý.
Trường hợp người bị kết án tù cải tạo, giam giữ hình sự, tù có thời hạn, tù chung thân được giảm án hoặc được ân xá do ăn năn hối cải, có công trong thời gian thi hành án thì cơ quan thi hành án có văn bản. trình Tòa án nhân dân có liên quan quyết định, phê chuẩn và sao y bản sao đề nghị đó gửi Viện kiểm sát nhân dân có liên quan. Viện kiểm sát nhân dân có quyền gửi ý kiến ​​bằng văn bản đến Tòa án nhân dân.
Điều 274 Viện kiểm sát nhân dân xét thấy quyết định ân giảm án, ân xá của Toà án nhân dân là không đúng thì trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao lệnh phải có văn bản kiến ​​nghị với nhân dân. tòa án để sửa chữa. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được kiến ​​nghị, toà án nhân dân phải thành lập hội đồng tập thể mới để thụ lý vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng.
Điều 275 Trường hợp trong khi thi hành hình phạt, trại giam hoặc cơ quan thi hành án nào khác cho rằng bản án có sai sót hoặc tội phạm có đơn kêu oan thì chuyển vấn đề đó lên viện kiểm sát nhân dân hoặc toà án nhân dân đã tuyên án bản án ban đầu để xử lý.
Điều 276 Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc thi hành án hình sự của cơ quan thi hành án để xem việc thi hành có phù hợp với pháp luật hay không. Nếu họ phát hiện ra bất kỳ điều gì bất hợp pháp, họ sẽ thông báo cho cơ quan thi hành án để sửa chữa.
Phần V Các thủ tục đặc biệt
Chương I Thủ tục các vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện
Điều 277 Người chưa thành niên phạm tội phải được giáo dục, cải tạo, phục hồi chức năng bằng cách giữ vững nguyên tắc lấy giáo dục làm phương tiện chính và dùng hình phạt làm phương tiện phụ trợ.
Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an bảo đảm quyền tố tụng của người chưa thành niên khi giải quyết các vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện, hỗ trợ pháp lý cho người chưa thành niên, phân công Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên am hiểu về thể chất và tinh thần. của trẻ vị thành niên để thực hiện các trường hợp.
Điều 278 Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội chưa thành niên không ủy thác cho người bào chữa thì Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an có liên quan thông báo cho cơ quan trợ giúp pháp lý để cử luật sư bào chữa cho người chưa thành niên.
Điều 279 Trong việc xử lý các vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện, tùy trường hợp, cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân có thể điều tra về quá trình trưởng thành, lý do phạm tội và điều kiện giáo dục, giám hộ của nghi can, bị cáo là người chưa thành niên.
Điều 280 Việc áp dụng việc bắt giữ đối với bị can và nghi phạm tội phạm chưa thành niên sẽ bị hạn chế nghiêm ngặt. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân xem xét, phê chuẩn việc bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên và Tòa án nhân dân có liên quan quyết định việc bắt thì bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải hỏi cung và nghe ý kiến ​​của luật sư bào chữa.
Người chưa thành niên bị tạm giữ, bắt giam hoặc người đang thi hành án được giam giữ, quản lý, giáo dục riêng với người lớn.
Điều 281 Đối với một vụ án hình sự do trẻ vị thành niên thực hiện, người đại diện theo luật định của bị cáo hoặc nghi can tội phạm vị thành niên sẽ được thông báo để tham gia thẩm vấn và xét xử. Trường hợp không thể liên lạc được với người đại diện theo luật định hoặc không thể có mặt, hoặc là đồng phạm của anh ta / cô ta, những người thân trưởng thành khác của nghi phạm hoặc bị cáo tội phạm vị thành niên, hoặc đại diện từ trường học hoặc người sử dụng lao động, tổ chức cấp cơ bản của anh ta / cô ta / nơi ở của cô ấy hoặc tổ chức bảo vệ trẻ vị thành niên có thể được thông báo để tham gia thẩm vấn và xét xử, và thông tin liên quan sẽ được ghi lại bằng văn bản. Người đại diện theo luật định có mặt có thể thay mặt họ thực hiện các quyền tố tụng của nghi phạm hoặc bị cáo tội phạm vị thành niên.
Người đại diện theo luật định hoặc những người khác có mặt có thể đưa ra ý kiến ​​của mình nếu họ cho rằng người xử lý vụ án đã làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ vị thành niên trong khi thẩm vấn hoặc xét xử. Biên bản thẩm vấn và hồ sơ tòa án sẽ được đưa hoặc đọc cho đại diện theo luật định hoặc những người khác có mặt.
Các nhân viên nữ sẽ có mặt trong quá trình thẩm vấn một nữ nghi phạm tội phạm vị thành niên.
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện, người đại diện theo luật định của họ có thể phát biểu bổ sung sau khi bị cáo chưa thành niên đã khai báo sau cùng.
đoạn một, đoạn hai và đoạn ba sẽ được áp dụng khi các nạn nhân hoặc nhân chứng vị thành niên bị thẩm vấn.
Điều 282 Trường hợp trẻ vị thành niên bị nghi ngờ phạm tội tại Chương IV, V hoặc VI của các Điều khoản đặc biệt của Luật Hình sự, bị phạt tù có thời hạn không quá một năm hoặc hình phạt nhẹ hơn, và các điều kiện truy tố được đáp ứng, nhưng đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội thì Viện kiểm sát nhân dân có thể ra quyết định không khởi tố có điều kiện. Viện kiểm sát nhân dân lấy ý kiến ​​của cơ quan công an và người bị hại trước khi ra quyết định không khởi tố có điều kiện.
Trường hợp cơ quan công an yêu cầu xem xét lại hoặc xem xét lại quyết định không khởi tố có điều kiện hoặc người bị hại có đơn yêu cầu chống lại quyết định nói trên thì áp dụng quy định tại Điều 179 và Điều 180 của Nghị định này.
Trường hợp nghi can phạm tội chưa thành niên và người đại diện theo luật định của họ phản đối quyết định không khởi tố có điều kiện của Viện kiểm sát nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân quyết định khởi tố vụ án.
Điều 283 Trong thời gian thử thách không khởi tố có điều kiện, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát, kiểm sát người chưa thành niên phạm tội được miễn truy tố có điều kiện. Người giám hộ của nghi can tội phạm chưa thành niên có trách nhiệm củng cố kỷ luật đối với nghi phạm và phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân trong việc giám sát, kiểm tra.
Thời gian thử thách đối với trường hợp không khởi tố có điều kiện là không dưới sáu tháng nhưng không quá một năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định không khởi tố có điều kiện.
Một nghi phạm tội phạm vị thành niên được miễn truy tố có điều kiện sẽ:
(1) tuân thủ luật pháp và các quy định, và chấp nhận sự giám sát;
(2) báo cáo các hoạt động của mình theo yêu cầu của cơ quan giám sát;
(3) được sự chấp thuận của cơ quan giám sát trước khi rời thành phố hoặc quận mà người đó cư trú hoặc trước khi chuyển đến nơi cư trú khác; và
(4) chấp nhận giáo dục và sửa chữa theo yêu cầu của cơ quan giám sát.
Điều 284 Viện kiểm sát nhân dân hủy bỏ quyết định không khởi tố có điều kiện và khởi tố công khai nếu trong thời gian thử thách bị phát hiện có nghi phạm là trẻ vị thành niên có liên quan thuộc một trong các trường hợp sau:
(1) nghi phạm tội phạm vị thành niên đã phạm tội mới hoặc cần bị truy tố về các tội đã thực hiện trước khi ra quyết định không truy tố có điều kiện; hoặc là
(2) nghi phạm tội phạm vị thành niên đã vi phạm nghiêm trọng các quy định về an ninh công cộng hoặc các quy định về giám sát và điều hành của cơ quan giám sát liên quan đến việc không truy tố có điều kiện.
Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định không truy tố khi hết thời hạn thử thách, nếu người chưa thành niên phạm tội có liên quan không thuộc một trong các trường hợp nêu trên trong thời gian thử thách.
Điều 285 Trường hợp bị cáo dưới 18 tuổi tại thời điểm xét xử sẽ được xét xử tại các phiên tòa kín, với điều kiện phải được sự đồng ý của bị cáo chưa thành niên và người đại diện theo luật định của bị cáo, trường học mà bị cáo chưa thành niên tham dự. và tổ chức bảo vệ người chưa thành niên có thể cử đại diện tham gia phiên tòa.
Điều 286 Trường hợp phạm tội chưa đủ 18 tuổi mà bị phạt tù có thời hạn không quá năm năm hoặc hình phạt nhẹ hơn thì được xóa án tích.
Không có lý lịch tư pháp nào được niêm phong có thể được cung cấp cho bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào, trừ trường hợp cơ quan tư pháp yêu cầu xử lý vụ việc hoặc được một tổ chức có liên quan truy cập theo quy định của Nhà nước. Tổ chức tiếp cận hồ sơ tội phạm được niêm phong theo quy định của pháp luật phải bảo mật thông tin trong hồ sơ tội phạm.
Điều 287 Trừ khi có quy định khác trong Chương này, các vụ án hình sự do trẻ vị thành niên thực hiện sẽ được xử lý theo các quy định khác của Hợp đồng này.
Chương II Thủ tục hòa giải giữa các bên liên quan trong các trường hợp truy tố công khai
Điều 288 Đối với các trường hợp khởi tố công khai sau đây, các bên có thể tự thỏa thuận hòa giải nếu bị can, bị cáo thực sự ăn năn hối cải, được người bị hại tha thứ bằng biện pháp bồi thường, xin lỗi và người bị hại tự nguyện chấp nhận hòa giải. :
(1) các vụ án liên quan đến các tội phạm quy định tại Chương IV và Chương V của các Điều khoản đặc biệt của Luật Hình sự phát sinh từ các tranh chấp riêng, bị phạt tù có thời hạn không quá ba năm hoặc hình phạt nhẹ hơn; và
(2) các trường hợp phạm tội do sơ suất, có thể bị phạt tù có thời hạn không quá bảy năm hoặc các hình phạt nhẹ hơn, trừ trường hợp bất cẩn.
Trường hợp bị can hoặc bị cáo phạm tội cố ý trong vòng XNUMX năm qua thì không áp dụng các thủ tục trong Chương này.
Điều 289 Trường hợp các đương sự trong vụ án hình sự tiến hành hòa giải thì cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân có liên quan lấy ý kiến ​​của đương sự và những người có liên quan khác, xem xét tính tự nguyện, hợp pháp của việc hòa giải và tổ chức lập biên bản hòa giải. .
Điều 290 Đối với trường hợp đã đạt được thỏa thuận hòa giải thì cơ quan công an có thể tham mưu cho Viện kiểm sát nhân dân để có hình phạt khoan hồng. Đến lượt mình, viện kiểm sát nhân dân có thể tư vấn cho tòa án nhân dân có liên quan để đưa ra hình phạt khoan hồng. Viện kiểm sát nhân dân có thể quyết định không khởi tố vụ án nếu tình tiết phạm tội nhẹ và chưa bị xử lý hình sự. Tòa án nhân dân có thể áp dụng hình phạt khoan hồng đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.
Chương III Các thủ tục thử nghiệm khi vắng mặt
Điều 291 Đối với vụ án hình sự tham nhũng, hối lộ, vụ án gây nguy hiểm nghiêm trọng đến an ninh Nhà nước hoặc hoạt động tội phạm khủng bố do Viện kiểm sát nhân dân xác định cần xét xử nhanh nếu bị can, bị cáo đang ở nước ngoài và cơ quan giám sát, cơ quan công an. cơ quan chức năng đã chuyển vụ án để khởi tố thì viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố công khai tại tòa án nhân dân nếu xét thấy đã xác định được rõ cụ thể hành vi phạm tội, có đủ chứng cứ thì truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. pháp luật. Sau khi xem xét, Tòa án nhân dân quyết định mở phiên tòa nếu bản cáo trạng nêu rõ hành vi phạm tội của bị cáo và có đủ điều kiện áp dụng thủ tục xét xử vắng mặt.
Vụ án nêu trong đoạn trên sẽ được xét xử bởi một hội đồng tập thể gồm tòa án nhân dân cấp trung gian tại nơi xảy ra tội phạm, tại nơi ở của bị cáo trước khi rời Trung Quốc hoặc theo chỉ định của Tòa án nhân dân tối cao.
Điều 292 Tòa án nhân dân tống đạt giấy triệu tập và bản sao cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân đối với bị cáo bằng biện pháp tương trợ tư pháp theo quy định của các điều ước quốc tế có liên quan hoặc theo đường ngoại giao hoặc bằng các phương thức khác được pháp luật của nước vị trí của bị đơn. Nếu bị cáo không có mặt tại Tòa án theo yêu cầu sau khi được triệu tập và tống đạt bản cáo trạng thì Tòa án nhân dân xét xử vụ án tại phiên tòa công khai, tuyên án theo quy định của pháp luật, xử lý thu lợi trái pháp luật và tài sản khác liên quan đến. trường hợp.
Điều 293 Đối với vụ án do Tòa án nhân dân xét xử vắng mặt thì bị cáo có quyền ủy thác cho người bào chữa của mình, người thân thích của bị cáo có thể ủy thác cho người bào chữa thay mình. Trường hợp bị cáo, người thân thích của họ không ủy thác cho người bào chữa thì Tòa án nhân dân thông báo cho cơ quan trợ giúp pháp lý để chỉ định luật sư bào chữa cho bị cáo.
Điều 294 Tòa án nhân dân tống đạt bản án bằng văn bản đối với bị cáo, người thân thích của họ và người bào chữa. Bị cáo, người thân thích của họ không hài lòng với bản án có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân cấp trên, người bào chữa cũng có thể kháng cáo khi được sự đồng ý của bị cáo hoặc người thân thích của họ. .
Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cho rằng bản án của Tòa án nhân dân là sai thì kháng nghị lên Tòa án nhân dân cấp trên.
Điều 295 Trong quá trình xét xử bị cáo tự nguyện ra đầu thú hoặc bị bắt thì Tòa án nhân dân xét xử lại vụ án.
Trường hợp người phạm tội ra tòa sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án nhân dân chấp hành hình phạt. Trước khi chấp hành hình phạt, Tòa án nhân dân phải thông báo cho người phạm tội biết quyền phản đối bản án, quyết định. Nếu người phạm tội phản đối bản án, quyết định thì Tòa án nhân dân xét xử lại vụ án.
Trong trường hợp việc định đoạt tài sản của người phạm tội theo bản án, quyết định đã có hiệu lực là không đúng, thì tài sản đó phải được trả lại và có bồi thường.
Điều 296 Trong trường hợp bị cáo không thể ra tòa do bệnh nặng và vẫn không thể có mặt tại tòa sau khi quá trình tố tụng bị đình chỉ trong hơn sáu tháng, nếu bị đơn và người đại diện tố tụng hoặc thân nhân của họ xin hoặc đồng ý tiếp tục xét xử thì Tòa án nhân dân xét xử vắng mặt bị cáo tại Tòa án và tuyên án theo quy định của pháp luật.
Điều 297 Trường hợp bị cáo chết thì Tòa án nhân dân ra quyết định đình chỉ xét xử; tuy nhiên, nếu có chứng cứ chứng minh bị cáo vô tội và Tòa án nhân dân xác nhận họ vô tội sau khi xét xử vắng mặt thì tuyên án theo quy định của pháp luật.
Đối với vụ án do Tòa án nhân dân xét xử lại theo thủ tục kiểm sát xét xử mà bị cáo chết thì Tòa án nhân dân xét xử vắng mặt và tuyên án theo quy định của pháp luật.
Chương IV Các thủ tục tịch thu lợi bất hợp pháp trong các trường hợp bị can hoặc bị cáo đã bỏ trốn hoặc chết
Điều 298 Viện kiểm sát nhân dân có thể đệ đơn lên toà án nhân dân để tịch thu số lợi bất hợp pháp trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng như tham nhũng, hối lộ, khủng bố mà nghi phạm hoặc bị cáo đã bỏ trốn và không bị phát hiện sau một năm kể từ khi có lệnh bắt công khai. đã được ban hành, hoặc nơi các nghi phạm hoặc bị cáo đã chết, và các khoản lợi bất hợp pháp và các tài sản khác liên quan đến vụ án sẽ bị tịch thu theo Luật Hình sự.
Trường hợp cơ quan công an cho rằng có bất kỳ trường hợp nào nêu tại khoản trên thì cơ quan công an lập phiếu lấy ý kiến ​​về việc tịch thu số lợi bất hợp pháp và chuyển hồ sơ đến viện kiểm sát nhân dân.
Đơn yêu cầu tịch thu số tiền thu lợi bất hợp pháp phải có các tài liệu chứng cứ liên quan đến tình tiết phạm tội và số tiền thu lợi bất hợp pháp, đồng thời phải nêu rõ loại, số lượng, địa điểm của tài sản, tài sản có bị niêm phong, thu giữ và phong tỏa hay không.
Trong trường hợp cần thiết, Toà án nhân dân có quyền niêm phong, thu giữ, phong toả tài sản bị áp dụng biện pháp tịch thu.
Điều 299 Đơn xin tịch thu số lợi bất hợp pháp phải được xét xử bởi Hội đồng tập thể do Toà án nhân dân trung cấp nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi ở của bị can, bị cáo phạm tội.
Tòa án nhân dân ra thông báo sau khi thụ lý đơn yêu cầu tịch thu số lợi bất hợp pháp. Thông báo sẽ có hiệu lực trong sáu tháng. Người thân thích và những người thân thích khác của nghi can, bị cáo phạm tội có quyền làm đơn tham gia tố tụng hoặc ủy thác cho người đại diện tố tụng tham gia tố tụng.
Tòa án nhân dân xét xử đơn yêu cầu tịch thu số lợi bất hợp pháp khi hết thời hạn thông báo. Trường hợp có đương sự tham gia tố tụng thì Tòa án nhân dân xét xử đơn tại phiên tòa.
Điều 300 Toà án nhân dân sau khi điều tra, xét xử sẽ ra phán quyết tịch thu tài sản thu lợi bất chính hoặc tài sản khác có liên quan đến vụ án, trừ tài sản phải trả lại cho người bị hại theo quy định của pháp luật . Trường hợp không tịch thu được tài sản thì Toà án nhân dân ra quyết định bác đơn, giải phóng khỏi niêm phong, thu giữ, phong toả tài sản.
Những người thân thích và những người có quan tâm khác của nghi phạm, bị cáo liên quan hoặc viện kiểm sát nhân dân có thể kháng cáo hoặc phản đối phán quyết của tòa án nhân dân theo khoản trên.
Điều 301 Tòa án nhân dân chấm dứt việc xét xử vụ án nếu bị can, bị cáo phạm tội lớn tự nguyện ra đầu thú hoặc bị bắt trong quá trình tố tụng tại tòa.
Tài sản bị tịch thu nhầm phải được trả lại hoặc hoàn trả cho bị can hoặc bị cáo có liên quan.
Chương V Các thủ tục bắt buộc điều trị y tế cho những người bị bệnh tâm thần không phải chịu trách nhiệm hình sự
Điều 302 Người tâm thần có hành vi bạo lực gây nguy hiểm đến an ninh công cộng hoặc nguy hiểm nghiêm trọng đến an ninh cá nhân của công dân mà không phải chịu trách nhiệm hình sự khi giám định theo thủ tục luật định thì có thể đưa đi chữa bệnh bắt buộc nếu có khả năng. để tiếp tục gây ra mối đe dọa cho xã hội.
Điều 302 Tòa án nhân dân quyết định việc bắt buộc chữa bệnh đối với người tâm thần theo quy định của Chương này.
Trường hợp cơ quan công an phát hiện người tâm thần đủ điều kiện đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thì có ý kiến ​​về việc bắt buộc chữa bệnh và chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát nhân dân có liên quan. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện người tâm thần do cơ quan Công an giới thiệu có đủ điều kiện đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc hoặc khi xem xét trước khi khởi tố thấy có hoàn cảnh nêu trên thì Viện kiểm sát nhân dân đưa ra Tòa án nhân dân có liên quan để đưa đi chữa bệnh bắt buộc. . Trường hợp Tòa án nhân dân xét xử vụ án có đủ điều kiện bắt buộc chữa bệnh thì Tòa án nhân dân ra quyết định bắt buộc chữa bệnh.
Đối với người tâm thần có hành vi bạo lực thì cơ quan công an có liên quan có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ, tạm thời trước khi Tòa án nhân dân ra quyết định bắt buộc chữa bệnh.
Điều 304 Tòa án nhân dân thành lập hội đồng tập thể xét xử đơn yêu cầu bắt buộc chữa bệnh khi thụ lý.
Tòa án nhân dân thông báo cho người đại diện theo pháp luật của bị đơn, bị đơn tham gia phiên xử đơn yêu cầu bắt buộc chữa bệnh. Trường hợp bị đơn, bị đơn chưa ủy thác cho người đại diện tố tụng thì Tòa án nhân dân thông báo cho cơ quan trợ giúp pháp lý chỉ định luật sư để họ thực hiện dịch vụ pháp lý.
Điều 305 Khi xét xử Tòa án nhân dân cho rằng bị đơn, bị đơn đủ điều kiện bắt buộc chữa bệnh thì Tòa án nhân dân ra quyết định bắt buộc chữa bệnh trong thời hạn một tháng.
Người ra quyết định bắt buộc chữa bệnh, người bị hại và người đại diện theo pháp luật hoặc người thân thích phản đối quyết định bắt buộc chữa bệnh thì có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân cấp trên xem xét lại.
Điều 306 Cơ sở chữa bệnh bắt buộc phải thường xuyên chẩn đoán, đánh giá người được điều trị. Trường hợp người đó không còn đe dọa đến an ninh cá nhân của người khác và không cần phải chữa bệnh bắt buộc nữa thì cơ sở chữa bệnh bắt buộc phải có ý kiến ​​để kịp thời chấm dứt việc chữa bệnh bắt buộc và trình Tòa án nhân dân. đã ra quyết định bắt buộc chữa bệnh để được phê duyệt.
Người đang chữa bệnh bắt buộc và người thân thích của người đó có quyền đề nghị chấm dứt việc chữa bệnh bắt buộc.
Điều 307 Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc quyết định và thực hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Các điều khoản bổ sung
Điều 308 Các cơ quan an ninh của Quân đội sẽ thực hiện quyền điều tra đối với các tội phạm hình sự đã xảy ra trong Quân đội.
Cảnh sát biển Trung Quốc sẽ thực hiện các chức năng bảo vệ quyền trên biển và thực thi pháp luật cũng như thực hiện quyền điều tra các vụ án hình sự xảy ra trên biển.
Các tội phạm của tội phạm trong trại giam sẽ do trại giam điều tra.
Việc xử lý các vụ án hình sự của các cơ quan an ninh của Quân đội, Cảnh sát biển Trung Quốc và các nhà tù sẽ được điều chỉnh bởi các quy định có liên quan của Luật pháp.

© 2020 Guodong Du và Meng Yu. Đã đăng ký Bản quyền. Nghiêm cấm việc cộng hòa hoặc phân phối lại nội dung, kể cả bằng cách đóng khung hoặc các phương tiện tương tự mà không có sự đồng ý trước bằng văn bản của Guodong Du và Meng Yu.