Luật Hàng không dân dụng được ban hành năm 1995 và được sửa đổi, bổ sung lần lượt vào các năm 2009, 2015, 2016, 2017, 2018 và 2021. Bản sửa đổi mới nhất có hiệu lực vào ngày 29 tháng 2021 năm XNUMX.
Tổng cộng có 215 bài báo. Luật nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia vùng trời, quyền của hàng không dân dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hoạt động hàng không dân dụng và thúc đẩy phát triển ngành hàng không dân dụng.
Các điểm chính như sau:
1. Vùng trời trên lãnh thổ đất liền và lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) là vùng trời lãnh thổ của CHND Trung Hoa. CHND Trung Hoa được hưởng chủ quyền hoàn toàn và độc quyền đối với vùng trời lãnh thổ của mình.
Cơ quan quản lý hàng không dân dụng có thẩm quyền thuộc Quốc vụ viện (Cục Hàng không dân dụng Trung Quốc (CAAC)) thực hiện quyền giám sát và điều hành thống nhất đối với hoạt động hàng không dân dụng trên toàn quốc.
3. Theo mục đích của Luật này, "máy bay dân dụng" dùng để chỉ máy bay không phải là máy bay được sử dụng cho các nhiệm vụ quân sự, hải quan và cảnh sát. Tàu bay dân dụng đã nhập quốc tịch CHND Trung Hoa theo quy định của pháp luật phải có quốc tịch và nhãn hiệu đăng ký theo quy định. Máy bay dân dụng không được có hai quốc tịch.
4. Đối với mỗi vùng trời được kiểm soát được chỉ định, một đơn vị kiểm soát không lưu duy nhất sẽ chịu trách nhiệm kiểm soát không lưu của tất cả các tàu bay hoạt động trong vùng trời được chỉ định đó. Tàu bay dân dụng khi thực hiện các chuyến bay trong vùng trời được kiểm soát phải được phép của đơn vị kiểm soát không lưu.
5. Trách nhiệm của người vận chuyển đối với các thiệt hại trong vận tải hàng không quốc tế được giới hạn ở (1) 16,600 đơn vị tài khoản cho mỗi hành khách; (2) 17 đơn vị tính cho mỗi kg hành lý ký gửi hoặc hàng hóa; và (3) 332 đơn vị tính cho hành lý xách tay của mỗi hành khách. Đơn vị tài khoản đề cập đến Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) do Quỹ tiền tệ quốc tế quy định.
6. Một máy bay dân dụng nước ngoài chỉ được bay vào và ra khỏi vùng trời CHND Trung Hoa, hoặc bay và hạ cánh trong lãnh thổ CHND Trung Hoa theo hiệp ước hoặc thỏa thuận đã ký giữa Chính phủ Trung Quốc và chính phủ của Quốc gia nơi máy bay đó được đăng ký, hoặc theo sự cho phép hoặc chấp thuận của nhà chức trách hàng không dân dụng có thẩm quyền thuộc Quốc vụ viện CHND Trung Hoa.