Khi nộp đơn yêu cầu tòa án Trung Quốc công nhận bản án nước ngoài, tôi có cần cung cấp bằng chứng để chứng minh rằng có mối quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và quốc gia nơi bản án được đưa ra không?
1. Làm thế nào để chứng minh có đi có lại?
Nếu bạn muốn các tòa án Trung Quốc công nhận phán quyết nước ngoài của bạn, một tiền đề quan trọng là quốc gia mà phán quyết được đưa ra (tức là quốc gia xuất xứ) đã ký kết các điều ước quốc tế liên quan với Trung Quốc hoặc có mối quan hệ qua lại giữa hai bên. Quốc gia. Tuy nhiên, do hầu hết các đối tác thương mại lớn của Trung Quốc vẫn chưa ký kết bất kỳ hiệp ước quốc tế liên quan nào với Trung Quốc, nên việc Trung Quốc có công nhận phán quyết của nước ngoài hay không thường phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại giữa hai nước.
Như chúng tôi đã đề cập trong các bài đăng trước, Các tòa án Trung Quốc đang thảo luận về ba loại mối quan hệ tương hỗ, mỗi loại được chứng minh theo một cách khác nhau.
Cho đến nay, Trung Quốc đang áp dụng nguyên tắc có đi có lại trên thực tế trong hoạt động tư pháp, nghĩa là nếu nước ngoài có tiền lệ công nhận phán quyết của Trung Quốc, thì theo nguyên tắc có đi có lại, tòa án Trung Quốc có thể công nhận phán quyết của nước ngoài. . Vì vậy, để chứng minh sự có đi có lại, các tòa án Trung Quốc cần phải có được phán quyết của tiền lệ này.
Tòa án Nhân dân Tối cao Trung Quốc (SPC) cũng đang ủng hộ việc có đi có lại giả định, chẳng hạn như thử nghiệm có đi có lại giả định được đề xuất trong Tuyên bố Nam Ninh, nghĩa là, nếu hai quốc gia không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều ước quốc tế nào về việc công nhận lẫn nhau và thi hành các phán quyết dân sự hoặc thương mại của nước ngoài, thì cả hai quốc gia có thể, theo luật trong nước của họ, cho rằng sự tồn tại của mối quan hệ có đi có lại của họ, khi nói đến thủ tục tư pháp công nhận hoặc cho thi hành các phán quyết đó do các tòa án của quốc gia kia đưa ra, với điều kiện các tòa án của quốc gia kia không từ chối công nhận hoặc thi hành các phán quyết đó với lý do thiếu có đi có lại. Trong trường hợp này, chừng nào các tòa án Trung Quốc chưa có được bất kỳ phán quyết nào như vậy của tòa án nước ngoài chống lại việc công nhận phán quyết của Trung Quốc với lý do thiếu có đi có lại, thì có thể coi rằng có mối quan hệ có đi có lại giữa hai nước.
Ngoài ra, TANDTC cũng đã xem xét tính có đi có lại trong dự thảo giải thích tư pháp liên quan đến việc công nhận và thi hành các phán quyết của nước ngoài, nghĩa là ngay cả đối với một quốc gia chưa có tiền lệ công nhận phán quyết của Trung Quốc, nếu theo quy định của pháp luật nước này. khi phán quyết được đưa ra, trong những trường hợp tương tự, phán quyết của Trung Quốc có thể được tòa án nước ngoài công nhận và thi hành, tòa án Trung Quốc có thể công nhận phán quyết của nước ngoài. Trong trường hợp này, để chứng minh mối quan hệ có đi có lại, các tòa án Trung Quốc cần phải có được luật của nước đó và có thể diễn giải chính xác.
Bây giờ câu hỏi đặt ra là: Ai chịu trách nhiệm điều tra và chứng minh các mối quan hệ qua lại?
2. Ai sẽ chứng minh sự có đi có lại?
Việc thiết lập các mối quan hệ qua lại cũng liên quan đến việc hiểu rõ luật nước ngoài. Tuy nhiên, theo luật quốc tế tư nhân của Trung Quốc, các quy tắc hiện hành về chứng minh luật nước ngoài chỉ nhằm mục đích xác định luật nước ngoài hiện hành, và không thể áp dụng để xác định vấn đề có đi có lại. Nói cách khác, không có quy tắc cụ thể nào về gánh nặng của việc thiết lập sự có đi có lại.
Hơn nữa, theo hiểu biết của chúng tôi, trong dự thảo giải thích tư pháp liên quan đến việc công nhận và thi hành các phán quyết nước ngoài, trách nhiệm thiết lập có đi có lại vẫn chưa được đề cập đến.
Các thẩm phán Trung Quốc đã bày tỏ quan điểm của họ về vấn đề này trong các bài báo của họ, nhưng quan điểm của họ khác nhau.
Thẩm phán Shen Hongyu (沈 红雨) của TANDTC tin rằng về nguyên tắc, tòa án phải xác định rõ mối quan hệ có đi có lại, nhưng tòa án cũng có thể yêu cầu các bên cung cấp luật nước ngoài. [1] Theo quan điểm của Thẩm phán Shen, trách nhiệm thiết lập sự có đi có lại có thể được xác định bằng cách tham khảo các quy tắc của Trung Quốc về việc tuân thủ luật pháp nước ngoài.
Ba thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp cao Giang Tô, bao gồm cả Thẩm phán Jiang Xin (姜 欣), tin rằng các bên phải chịu trách nhiệm thiết lập mối quan hệ có đi có lại và nếu cần, tòa án có thể điều tra chính thức mối quan hệ có đi có lại. [2] Thẩm phán Jiang là thẩm phán đã đưa ra các phán quyết đầu tiên ở Trung Quốc để công nhận và thực thi một tòa án Singapore. Thẩm phán Jiang tin rằng có đi có lại là một điều hiển nhiên. Theo quy tắc về chứng cứ của Trung Quốc, các tình tiết của vụ án sẽ được chứng minh bằng các chứng cứ do các bên cung cấp. Cụ thể, nếu người nộp đơn (người được thi hành án) yêu cầu có quan hệ qua lại thì người nộp đơn cần cung cấp bằng chứng để chứng minh cho yêu cầu của mình. Ngoài ra, thẩm phán Jiang cũng đề cập rằng các mối quan hệ có đi có lại không chỉ liên quan đến lợi ích của các bên mà còn liên quan đến lợi ích của nhà nước, nên tòa án cần thận trọng và có thể tự mình tiến hành điều tra nếu cần thiết.
3. Làm thế nào để đối phó với nó?
Chúng tôi tin rằng, trong mọi trường hợp, người nộp đơn nên chứng minh sự có đi có lại với tòa án càng nhiều càng tốt. Bởi vì, như chúng tôi đã nhấn mạnh nhiều lần, thẩm phán của các tòa án địa phương Trung Quốc không đủ thẩm quyền để xác định luật nước ngoài. Ngay cả khi luật quy định rằng các thẩm phán có nghĩa vụ xác định các mối quan hệ có đi có lại, thì điều này không có nghĩa là các thẩm phán có khả năng làm như vậy.
Ví dụ, trong trường hợp "Đơn xin công nhận và thi hành phán quyết của Tòa án Hàn Quốc" của Zhang Xiaoxi vào năm 2015, Tòa án nhân dân trung cấp Thẩm Dương, Trung Quốc cho rằng không có mối quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và Triều Tiên. Tuy nhiên, thực tế là ngay từ năm 1999, Tòa án quận Seoul của Hàn Quốc, theo các luật và quy định liên quan về công nhận và thi hành các bản án ở Trung Quốc và Hàn Quốc, đã nhận thấy rằng có mối quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và Hàn Quốc, và theo đó đã công nhận một bản án dân sự do Tòa án Nhân dân Trung cấp Duy Phường của tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc đưa ra. Phải đến năm 2019, Tòa án Nhân dân Trung cấp Thanh Đảo của tỉnh Sơn Đông mới chú ý đến tiền lệ của Triều Tiên và công nhận phán quyết của Triều Tiên theo đó.
Ngoài ra, bất kể ai chứng minh được mối quan hệ có đi có lại, bị đơn (người phải thi hành án) có thể chứng minh rằng không có mối quan hệ có đi có lại nào, chẳng hạn bằng cách đệ trình lên tòa án Trung Quốc tiền lệ nước ngoài về việc công nhận phán quyết của Trung Quốc với lý do thiếu. có đi có lại. Vì vậy, các ứng viên cũng cần cân nhắc khả năng này.
Đầu tháng XNUMX, TANDTC đã đề xuất thiết lập một cơ sở dữ liệu để nâng cao tính chính xác và hiệu quả của các thẩm phán trong việc xác định các mối quan hệ có đi có lại, như một phần của ý tưởng trong việc thúc đẩy sự lưu hành toàn cầu của các bản án nước ngoài. Chúng tôi cũng rất mong cơ sở dữ liệu này sớm hoàn thành.
Tài liệu tham khảo:
[1] 沈 红雨 : “外国 民 商 事 判决 承认 和 执行 若干 疑难 问题 研究” , 载 《法律 适用》 2018 年 第 5 期。
[2] 李红 建 、 朱亚男 、 陈亮 : “江苏 法院 服务 和 保障 '一带 一路' 建设 的 司法 实践 《人民 人民 2019 年 第 13 期。
Nếu bạn muốn thảo luận với chúng tôi về bài đăng hoặc chia sẻ quan điểm và đề xuất của mình, vui lòng liên hệ với cô Meng Yu (meng.yu@chinajusticeobserver.com).
Nếu bạn cần các dịch vụ pháp lý để công nhận và thực thi các phán quyết và phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Trung Quốc, vui lòng liên hệ với ông Guodong Du (guodong.du@chinajusticeobserver.com ). Du và đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm của anh ấy sẽ có thể hỗ trợ bạn.
Đóng góp: Quốc Đông Du 杜国栋 , Meng Yu 余 萌