Thẩm phán Shen Hongyu (沈 红雨) của Tòa án Nhân dân Tối cao Trung Quốc (TANDTC), người đã tham gia hoạch định chính sách liên quan đến việc công nhận và thi hành các phán quyết dân sự và thương mại của nước ngoài tại Trung Quốc, tập trung vào XNUMX vấn đề: liệu các tòa án nước ngoài có thẩm quyền hay không; liệu các tòa án nước ngoài có đảm bảo rằng các bên được thông báo hợp lệ và được hưởng quyền được xét xử hay không; mối quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và quốc gia nơi phán quyết được đưa ra.
Bài đăng này là phần giới thiệu bài viết có tiêu đề “Nghiên cứu về một số vấn đề khó khăn trong công nhận và thi hành các bản án dân sự và thương mại nước ngoài” (外国 民 商 事 判决 承认 和 执行 若干 疑难 问题 研究) để phản ánh suy nghĩ của thẩm phán TANDTC về việc công nhận và thực thi của các bản án dân sự và thương mại nước ngoài. Bài báo này đã được đăng trên “Tạp chí Ứng dụng Pháp luật” (法律 适用) (số 5, 2018), tác giả là Shen Hongyu, Thẩm phán Phòng Dân sự số 4 của TANDTC. Theo các báo cáo liên quan, Thẩm phán Shen Hongyu có liên quan đến soạn thảo “Diễn giải tư pháp về việc công nhận và thi hành các bản án dân sự và thương mại nước ngoài” của TANDTC (最高人民法院 关于 承认 与 执行 外国 法院 民 商 事 判决 的 司法 解释).
Tòa án tối cao Trung Quốc nói về công nhận và thực thi phán quyết nước ngoài (Phần I)
4. Tòa án Trung Quốc nên đối xử với mối quan hệ có đi có lại như thế nào?
CPL quy định rằng nguyên tắc có đi có lại là điều kiện tiên quyết để công nhận và thi hành các phán quyết của nước ngoài, nhưng pháp luật không giải thích rõ ràng về nguyên tắc có đi có lại. Do đó, có sự khác biệt giữa các tòa án Trung Quốc về cách xác định sự tồn tại có đi có lại.
Từ lâu, Trung Quốc đã khẳng định có đi có lại trên thực tế, tức là nếu không có tiền lệ nào cho thấy một trong hai nước đã công nhận và thi hành phán quyết của nước kia, thì giữa hai nước không có quan hệ tương hỗ.
Tác giả cho rằng việc có đi có lại trên thực tế không chỉ khiến các bản án dân sự và thương mại nước ngoài khó được các tòa án Trung Quốc công nhận và thi hành, mà còn có khả năng khiến các tòa án nước ngoài từ chối công nhận các phán quyết của Trung Quốc trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại. cũng dẫn đến một số lượng lớn các thủ tục tố tụng song song.
Tác giả tin rằng để phục vụ cho việc xây dựng “sáng kiến Vành đai và Con đường” của Trung Quốc, các tòa án Trung Quốc nên nới lỏng một cách hợp lý các tiêu chí cho các mối quan hệ qua lại, do đó thúc đẩy hợp tác trong việc công nhận xuyên biên giới và thực thi phán quyết giữa các nước.
Tác giả cũng chỉ ra rằng “Một số ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao về việc cung cấp các dịch vụ tư pháp và biện pháp bảo vệ cho việc xây dựng 'Vành đai và Con đường' của các Tòa án nhân dân" (关于 人民法院 为 “一带 一路” 建设 提供 司法 服务 和 保障 保障若干 意见) do TANDTC ban hành năm 2015 và “Tuyên bố Nam Ninh”(南宁 声明) được thông qua bởi Diễn đàn Tư pháp Trung Quốc-ASEAN lần thứ 2 vào năm 2017 là những bước đột phá được thực hiện bởi các tòa án Trung Quốc liên quan đến nguyên tắc có đi có lại. (CJO cũng đã nhận thấy xu hướng này.)
Tác giả đưa ra đề xuất của mình về cách tiếp cận mà Trung Quốc có thể thực hiện trong tương lai liên quan đến vấn đề có đi có lại:
(1) Làm rõ các tiêu chí có đi có lại trong luật pháp hoặc giải thích tư pháp
Tác giả cho rằng về mặt xác định sự tồn tại của sự có đi có lại, Trung Quốc nên đánh giá khả năng công nhận và thi hành các phán quyết của Trung Quốc ở nước ngoài theo luật của quốc gia nơi phán quyết được đưa ra (de jure có đi có lại), thay vì bắt buộc. đòi hỏi sự có đi có lại trên thực tế giữa hai quốc gia.
(2) Đa dạng hóa các hình thức và kênh để xây dựng mối quan hệ tương hỗ
Ngoài việc ký kết hiệp ước tương trợ tư pháp, Trung Quốc có thể mở rộng hơn nữa các kênh để thiết lập mối quan hệ có đi có lại, bao gồm:
Tôi. Thực hiện các cam kết có đi có lại của hai nước thông qua các con đường ngoại giao;
ii. Đạt được một biên bản ghi nhớ về tư pháp hoặc sự đồng thuận về việc công nhận lẫn nhau và thực thi các phán quyết.
Ví dụ, Trung Quốc đã lần đầu tiên cố gắng thiết lập mối quan hệ có đi có lại với các nước ASEAN trong những điều kiện nhất định thông qua một sự đồng thuận tư pháp trong “Tuyên bố Nam Ninh”(南宁 声明).
(3) Xác định việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại và các ngoại lệ của nó theo các loại phán đoán khác nhau
Hiện tại, các bên Trung Quốc có thể nộp đơn lên tòa án Trung Quốc để công nhận bản án ly hôn của người nước ngoài mà không yêu cầu về sự tồn tại của mối quan hệ có đi có lại giữa nước ngoài và Trung Quốc.
Tác giả tin rằng, ngoài các phán quyết ly hôn, Trung Quốc có thể xem xét, bằng luật pháp hoặc diễn giải tư pháp, rõ ràng hạn chế áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong các phán quyết liên quan đến quyền dân sự và năng lực dân sự của một công dân và một pháp nhân, cũng như một mối quan hệ nhận nuôi hoặc người giám hộ.
(4) Làm rõ nghĩa vụ chứng minh đối với nguyên tắc có đi có lại
Tác giả cho rằng về nguyên tắc, các tòa án Trung Quốc nên xác định rõ ràng liệu có mối quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và quốc gia nơi đưa ra phán quyết hay không, nhưng các tòa án Trung Quốc cũng có thể yêu cầu các bên liên quan cung cấp luật pháp nước ngoài.
Do án lệ ở nước ngoài không ngừng phát triển nên việc có tiền lệ cho thấy quốc gia nơi ra phán quyết đã công nhận hay không công nhận phán quyết của tòa án trong nước được áp dụng phù hợp chỉ là một trong những vấn đề cần cân nhắc chứ không phải là yếu tố quyết định. , trong việc xác định mối quan hệ tương hỗ.
Nếu bạn muốn thảo luận với chúng tôi về bài đăng, hoặc chia sẻ quan điểm và đề xuất của bạn, vui lòng liên hệ với bà Meng Yu (meng.yu@chinajusticeobserver.com).
Nếu bạn cần các dịch vụ pháp lý để công nhận và thực thi các phán quyết và phán quyết trọng tài nước ngoài tại Trung Quốc, vui lòng liên hệ với ông Guodong Du (guodong.du@chinajusticeobserver.com). Du và đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm của anh ấy sẽ có thể hỗ trợ bạn.
Nếu bạn muốn nhận tin tức và hiểu sâu hơn về hệ thống tư pháp Trung Quốc, vui lòng đăng ký nhận bản tin của chúng tôi (subscribe.chinajusticeobserver.com).
Để biết thêm thông tin về Công nhận và Thực thi Phán quyết Nước ngoài ở Trung Quốc, vui lòng tải xuống Bản tin CJO vol.1 số. 1.
Đóng góp: Quốc Đông Du 杜国栋 , Meng Yu 余 萌