Những điểm chính:
- Tóm tắt Hội nghị năm 2021 đã đưa ra các tiêu chí mới để xác định có đi có lại, thay thế tiêu chí trước đó trên thực tế kiểm tra có đi có lại và có đi có lại giả định.
- Tiêu chí có đi có lại mới bao gồm ba bài kiểm tra, đó là de jure có đi có lại, hiểu biết có đi có lại hoặc sự đồng thuận và cam kết có đi có lại không có ngoại lệ, điều này cũng đồng thời với các hoạt động tiếp cận có thể có của các ngành lập pháp, tư pháp và hành chính.
- Các tòa án Trung Quốc cần phải xem xét từng trường hợp cụ thể về sự tồn tại của sự có đi có lại, mà trên đó Tòa án Nhân dân Tối cao là người có tiếng nói cuối cùng.
Bài viết liên quan:
- Trung Quốc ban hành chính sách tư pháp quan trọng về thực thi phán quyết nước ngoài - Đột phá về thu thập phán quyết ở Trung Quốc loạt bài (I)
- Cách Tòa án Trung Quốc xem xét đơn xin thực thi phán quyết nước ngoài: Tiêu chí và phạm vi áp dụng - Đột phá về thu thập phán quyết ở Trung Quốc Series (II)
- Cách Tòa án Trung Quốc xác định có đi có lại trong thực thi phán quyết ở nước ngoài - Đột phá về thu thập phán quyết ở Trung Quốc Series (III)
- Làm thế nào các Tòa án Trung Quốc xác định các Phán quyết Nước ngoài là Cuối cùng và Kết luận? - Đột phá để thu thập các bản án trong loạt phim Trung Quốc (IV)
- Những tài liệu cần chuẩn bị để thực thi phán quyết nước ngoài ở Trung Quốc - Đột phá để thu thập phán quyết ở Trung Quốc Series (V)
- Cách viết đơn xin thực thi phán quyết nước ngoài ở Trung Quốc - Đột phá để thu thập phán quyết ở Trung Quốc Series (VI)
- Các điều kiện để thực thi phán quyết nước ngoài ở Trung Quốc - Đột phá để thu thập phán quyết ở Trung Quốc Series (VII)
- Nơi nộp đơn xin thực thi phán quyết nước ngoài ở Trung Quốc - Bước đột phá về thu thập phán quyết ở Trung Quốc (VIII)
- Người nộp đơn có thể tìm kiếm các biện pháp tạm thời từ Tòa án Trung Quốc không? - Đột phá về Thu thập các bản án ở Trung Quốc Series (IX)
Trung Quốc đã công bố một chính sách tư pháp mang tính bước ngoặt về thực thi các bản án nước ngoài vào năm 2022, bắt đầu một kỷ nguyên mới cho công tác thu thập phán quyết ở Trung Quốc.
Chính sách tư pháp là “Tóm tắt Hội nghị của Hội nghị Chuyên đề về các Phiên tòa Thương mại và Hàng hải liên quan đến nước ngoài của các Tòa án trên toàn quốc” (sau đây gọi là “Tóm tắt Hội nghị năm 2021”, 全国 法院 涉外 商 事 海事 审判 工作 座谈会 会议 纪要) do Nhân dân Tối cao Trung Quốc ban hành Tòa án (TANDTC) vào ngày 31 tháng 2021 năm XNUMX.
Là một phần của 'Đột phá về thu thập các bản án trong loạt phim Trung Quốc', bài đăng này giới thiệu Điều 44 và Đoạn 2 Điều 49 của Tóm tắt Hội nghị năm 2021, đề cập đến các tiêu chí mới được đưa ra để xác định có đi có lại, thay thế cho các tiêu chí trước đó trên thực tế kiểm tra có đi có lại và có đi có lại giả định.
Các tòa án Trung Quốc tiếp tục tự do hóa các quy tắc trong việc xác định có đi có lại, một động thái quan trọng đảm bảo nỗ lực mở cửa về cơ bản cho các phán quyết nước ngoài.
Nội dung Tổng kết Hội nghị năm 2021
Điều 44 của Tóm tắt Hội nghị năm 2021 [Công nhận có đi có lại]:
"Khi xét xử vụ án yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài, Tòa án nhân dân có thể công nhận có đi có lại trong một số trường hợp sau đây:
(1) Trường hợp các bản án dân sự và thương mại của tòa án Trung Quốc có thể được tòa án nước ngoài ra phán quyết công nhận và cho thi hành theo luật của quốc gia nơi tòa án nước ngoài đặt trụ sở;
(2) Nơi mà Trung Quốc đã đạt được sự hiểu biết có đi có lại hoặc đồng thuận với quốc gia nơi có tòa án ra phán quyết; hoặc
(3) Trường hợp quốc gia nơi Tòa án ra phán quyết có cam kết có đi có lại với Trung Quốc thông qua đường ngoại giao hoặc Trung Quốc có cam kết có đi có lại với quốc gia nơi có Tòa án ra phán quyết thông qua đường ngoại giao và không có bằng chứng xác thực. quốc gia nơi đặt trụ sở của tòa án ra phán quyết đã từ chối công nhận và thi hành bản án hoặc phán quyết của Trung Quốc với lý do thiếu có đi có lại.
Tòa án Trung Quốc sẽ xem xét và xác định sự tồn tại của sự có đi có lại trên cơ sở từng trường hợp. "
Đoạn 2 Điều 49 của Tóm tắt Hội nghị năm 2021 [Cơ chế nộp hồ sơ và thông báo để công nhận và thi hành phán quyết nước ngoài]:
"Tòa án nhân dân trước khi ra phán quyết đối với vụ án được xem xét theo nguyên tắc có đi có lại thì trình Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xem xét; nếu Tòa án nhân dân cấp cao đồng ý với ý kiến xử lý đã đề xuất thì sẽ gửi ý kiến thẩm tra của mình cho TANDTC để xem xét. Phán quyết nêu trên chỉ được đưa ra sau khi có ý kiến trả lời của TANDTC. "
Giải thích
I. Tòa án Trung Quốc cần xem xét sự có đi có lại trong những trường hợp nào?
Câu trả lời nhanh dành cho các phán quyết được đưa ra trong 'các khu vực pháp lý không theo hiệp ước'.
Nếu phán quyết của nước ngoài được đưa ra tại một quốc gia không ký kết các điều ước quốc tế hoặc song phương có liên quan với Trung Quốc, còn được gọi là 'khu vực tài phán không theo hiệp ước', trước tiên tòa án Trung Quốc phải xác định sự tồn tại có đi có lại giữa quốc gia đó và Trung Quốc. Nếu có đi có lại, tòa án Trung Quốc sau đó sẽ xem xét thêm đơn xin công nhận và thi hành phán quyết.
Vì vậy, đối với các quốc gia khác không nằm trong số 35 quốc gia đã ký kết các điều ước quốc tế hoặc song phương có liên quan với Trung Quốc, ưu tiên hàng đầu của các tòa án Trung Quốc là xác định sự tồn tại có đi có lại giữa quốc gia nơi đưa ra phán quyết và Trung Quốc.
Để biết thêm về 35 hiệp ước tương trợ tư pháp song phương bao gồm các điều khoản thi hành án của nước ngoài, vui lòng đọc 'Danh sách các Hiệp ước song phương của Trung Quốc về Hỗ trợ tư pháp trong các Vấn đề Dân sự và Thương mại (Bao gồm Thi hành các Phán quyết Nước ngoài)'.
II. Trong những trường hợp nào thì các tòa án Trung Quốc sẽ công nhận sự tồn tại có đi có lại giữa quốc gia nơi đưa ra phán quyết và Trung Quốc?
Tóm tắt Hội nghị năm 2021 đã đưa ra các tiêu chí mới để xác định có đi có lại, thay thế cho kiểm tra có đi có lại trên thực tế và có đi có lại giả định trước đây.
Các tiêu chí mới bao gồm ba bài kiểm tra có đi có lại, cụ thể là, de jure có đi có lại, hiểu biết có đi có lại hoặc sự đồng thuận và cam kết có đi có lại không có ngoại lệ, điều này cũng đồng thời với các hoạt động tiếp cận có thể có của các ngành lập pháp, tư pháp và hành chính.
1. Tính có đi có lại
Nếu theo luật của nước nơi ra phán quyết, các bản án dân sự và thương mại của Trung Quốc có thể được tòa án nước đó công nhận và cho thi hành, thì tòa án Trung Quốc cũng sẽ công nhận các phán quyết của nước đó.
Đây là lần đầu tiên tòa án Trung Quốc chấp nhận de jure có đi có lại, tương tự như thông lệ hiện có ở nhiều quốc gia khác, chẳng hạn như Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trước đó, các tòa án Trung Quốc hiếm khi đề cập đến de jure có đi có lại. Hiện tại, trường hợp duy nhất mà sự có đi có lại của de jure, lần đầu tiên, được đề cập trong phán quyết của tòa án là Power Solar System Co., Ltd. v. Suntech Power Investment Pte. Ltd. (2019) Hu 01 Xie Wai Ren số 22 ((2019) 沪 01 协 外 认 22 号).
2. Sự hiểu biết có đi có lại hoặc sự đồng thuận
Nếu có sự hiểu biết qua lại hoặc đồng thuận giữa Trung Quốc và quốc gia nơi phán quyết được đưa ra, thì Trung Quốc có thể công nhận và thực thi phán quyết của quốc gia đó.
TANDTC và Tòa án Tối cao Singapore đã ký kết Biên bản hướng dẫn ghi nhận và thi hành phán quyết về tiền trong các vụ án thương mại (MOG) vào năm 2018, xác nhận rằng các tòa án Trung Quốc có thể công nhận và thực thi các phán quyết của Singapore trên cơ sở có đi có lại.
MOG có lẽ là nỗ lực đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) của các tòa án Trung Quốc về "sự hiểu biết có đi có lại hoặc sự đồng thuận".
MOG lần đầu tiên được đưa ra bởi một tòa án Trung Quốc trong Công ty TNHH Power Solar System kiện Suntech Power Investment Pte. Công ty TNHH (2019), một trường hợp mà bản án của Singapore đã được công nhận và thi hành ở Trung Quốc.
Theo mô hình này, chỉ với việc ký kết các bản ghi nhớ tương tự giữa TANDTC và Tòa án tối cao của các nước khác, hai bên có thể mở ra cánh cửa công nhận lẫn nhau về các phán quyết, giảm bớt rắc rối khi ký kết các điều ước song phương. Điều này đã hạ thấp đáng kể ngưỡng cho các tòa án Trung Quốc để tạo điều kiện cho các phán quyết 'di chuyển' xuyên biên giới.
3. Cam kết có đi có lại không có ngoại lệ
Nếu Trung Quốc hoặc quốc gia nơi đưa ra phán quyết đã có cam kết có đi có lại thông qua các kênh ngoại giao và quốc gia nơi ra phán quyết không từ chối công nhận phán quyết của Trung Quốc với lý do thiếu có đi có lại, thì tòa án Trung Quốc có thể công nhận. và thực thi phán quyết của quốc gia đó.
“Cam kết có đi có lại” là sự hợp tác giữa hai quốc gia thông qua các con đường ngoại giao. Ngược lại, “hiểu biết qua lại hay đồng thuận” là sự hợp tác giữa các ngành tư pháp của hai nước. Điều này cho phép ngành ngoại giao góp phần thúc đẩy tính khả thi của các phán quyết.
TANDTC đã thực hiện các cam kết có đi có lại trong chính sách tư pháp của mình, tức là Một số ý kiến về việc Tòa án nhân dân cung cấp các dịch vụ tư pháp và bảo đảm cho việc xây dựng Sáng kiến Vành đai và Con đường (Fa Fa (2015) số 9) (关于 人民法院 为 “一带 一路”建设 提供 司法 服务 和 保障 的 若干 意见). Nhưng cho đến nay, chúng tôi chưa tìm thấy quốc gia nào có cam kết như vậy với Trung Quốc.
III. Các tiêu chuẩn có đi có lại trước đây sẽ đi về đâu?
Tóm tắt Hội nghị năm 2021 đã hoàn toàn từ bỏ thông lệ trước đây của các tòa án Trung Quốc trong việc có đi có lại - có đi có lại trên thực tế và có đi có lại giả định. Liệu các tiêu chuẩn có đi có lại trước đây có còn ảnh hưởng đến sự công nhận có đi có lại của các tòa án Trung Quốc?
1. Có đi có lại trên thực tế
Trước Tổng kết Hội nghị năm 2021, các tòa án Trung Quốc đã thông qua trên thực tế có đi có lại, tức là chỉ khi trước đó tòa án nước ngoài đã công nhận và cho thi hành phán quyết của Trung Quốc, thì tòa án Trung Quốc mới công nhận sự tồn tại có đi có lại giữa hai nước, đồng thời tiếp tục công nhận và thi hành phán quyết của nước ngoài đó.
Trong những trường hợp nào thì tòa án Trung Quốc từ chối trên thực tế có đi có lại? Trong một số trường hợp, các tòa án Trung Quốc cho rằng không có sự có đi có lại giữa hai nước trong hai trường hợp sau:
A. Trường hợp tòa án nước ngoài từ chối công nhận và thi hành các phán quyết của Trung Quốc với lý do thiếu có đi có lại;
B. Trường hợp tòa án nước ngoài không có cơ hội công nhận và thi hành các phán quyết của Trung Quốc vì họ đã không chấp nhận các đơn đó;
Cho đến nay, các tòa án Trung Quốc đều công nhận các phán quyết của nước ngoài trên cơ sở có đi có lại trên thực tế.
2. Có đi có lại giả định
TANDTC đã từng đưa ra sự có đi có lại trong chính sách tư pháp của mình - Tuyên bố Nam Ninh - nếu chưa có tiền lệ về việc tòa án nước ngoài ra phán quyết từ chối công nhận và thi hành các phán quyết dân sự và thương mại của Trung Quốc trên cơ sở có đi có lại. hai quốc gia.
Sự có đi có lại giả định trên thực tế đã đảo ngược Hoàn cảnh B ở trên về việc các tòa án Trung Quốc từ chối sự có đi có lại trên thực tế, do đó tự do hóa các tiêu chuẩn về sự có đi có lại trên thực tế ở một mức độ nhất định.
Tuy nhiên, cho đến nay, các tòa án Trung Quốc vẫn chưa công nhận các phán quyết của nước ngoài trên cơ sở giả định có đi có lại.
IV. Các tòa án Trung Quốc sẽ xem xét sự tồn tại của sự có đi có lại trên cơ sở từng trường hợp, sau đó sẽ do TANDTC quyết định.
Xét về mối quan hệ có đi có lại giữa Trung Quốc và các quốc gia khác trong việc công nhận và thi hành phán quyết, sự tồn tại có đi có lại không thể được công nhận bằng nỗ lực một lần cho tất cả. Các tòa án Trung Quốc cần xem xét sự tồn tại của sự có đi có lại trên cơ sở từng trường hợp.
Nếu tòa án địa phương thụ lý đơn xét thấy có mối quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và quốc gia đưa ra phán quyết thì cần báo cáo lên tòa án cấp trên, tức là tòa án nhân dân cấp cao nơi có tòa án địa phương. , để xác nhận trước khi chính thức đưa ra phán quyết dựa trên quan điểm này.
Nếu TAND cấp cao đồng ý với ý kiến đề xuất xử lý thì cần báo cáo thêm để TANDTC xác nhận và TANDTC sẽ có tiếng nói cuối cùng về vấn đề này.
Nói cách khác, SPC có tiếng nói cuối cùng trong việc thừa nhận sự tồn tại của sự có đi có lại.
Đóng góp: Quốc Đông Du 杜国栋 , Meng Yu 余 萌